Những Giá trị về Cần lao trong Văn hoá của Người Bình dân Việt Nam Như Là Những Động lực Thúc đẩy Phát triển Kinh tế

Share this post on:

Nguyễn Văn Thái, Ph.D.

    Nhiều nhà xã hội học và kinh tế gia đặt câu hỏi là những động lực nào đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Maximilian Karl Emil Weber (21 April 1864 – 14 June 1920), một nhà xã hội học và là kinh tế gia người Đức, trong tác phẩm nổi tiếng của ông The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism (1905) đã phân tích và đưa ra giả thuyết là những đặc tính của đạo Tin Lành, đặc biệt là của hệ phái Calvin, như sự khắc khổ, tính phiêu lưu, tháo vát, làm việc chuyên cần, tằn tiện, và không hoang phí là những đức tính thúc đẩy sự phát triển kinh doanh và kĩ nghệ. Mặc dù ông không khẳng quyết là đạo Tin Lành, hệ phái Calvin, là nguyên nhân của tiến bộ và lưu ý là cũng có thể những người có những đặc tính này hay theo đạo Tin Lành mà thôi. Điều này cho phép ta tạm đưa ra kết luận là những đức tính đặc thù này, dù những người có những đặc tính này theo đạo gì, là những động lực thúc đẩy phát triển kinh doanh và kĩ nghệ. Những tổ phụ Thanh giáo (Puritanism) – có nguồn gốc từ hệ phái Calvin – đến Mỹ trên chiếc tàu Mayflower (1620) mang theo một hệ thống giá trị luân lí bao gồm sự chuyên cần trong việc làm, cần kiệm, kỷ luật, và sự ngay thẳng.

Nếu chính những đặc tính của con người, chứ không phải là việc theo một tôn giáo nào, là yếu tố thiết yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thì chúng ta thử tìm hiểu xem người Việt Nam có có những đặc tính này hay không.

    Những đặc tính của một dân tộc là do văn hoá của dân tộc đó tạo nên. Mà văn hoá là kết quả hình thành bởi tôn giáo, giáo dục, phong tục, tập quán.

    Giáo dục Việt Nam suốt gần hai ngàn năm — kể từ đời Sĩ Nhiếp (chữ Hán: 士燮; 137 – 226) đến kì thi khoa bảng cuối cùng dưới thời Minh Mạng vào năm 1919 — đặt nền tảng trên Khổng giáo có trọng tâm giáo huấn sĩ tử với mục đích là mẫu người quân tử phải bao gồm những đức tính như ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; ngũ luân: quân thần hữu nghĩa (vua tôi có nghĩa) , phụ tử hữu thân (cha con có tình thân), phu phụ hữu biệt (vợ chồng có những trách nhiệm khác nhau), trưởng ấu hữu tự (lớn nhỏ có thứ tự), bằng hữu hữu tín (bạn bè phải có chữ tín). Mô thức giáo dục này không hề đề cập đến nhu cầu phát triển kinh tế cho cá nhân, xã hội, hay quốc gia. Tuy nhiên, phong tục, tập quán của xã hội như được phản ánh qua ca dao, tục ngữ cho thấy là người bình dân Việt Nam rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế và có sẵn tất cả những đặc tính mà người Tin Lành, nhất là hệ phái Calvin, đã thể hiện vào thế kỷ 17 ở Âu châu.

    Trước tiên, chúng ta thấy người bình dân Việt Nam

  • Chịu khó làm việc:

Trâu ơi! Ta bảo trâu này,

Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

nh việc hơn rành li.

Có khó mới có miếng ăn,

Ngồi không, ai dễ đem phần đến cho.

Cày đng đang bui ban trưa,

            M hôi thánh thót như mưa rung cày.

            Ai ơi! Bưng bát cơm đy,

            Do thơm mt ht, đng cay muôn phn.

Giàu sang thì cũng chẳng màng,

Khó khăn ta liệu, ta làm, ta ăn.

Kể như nhng kẻ lười ngu,

Hay ăn mà chẳng hay lo, hay làm.

Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn.

Năng làm thì nên.

Rủ nhau đi cấy đi cày,

Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

Khi vui thì v tay vào,

Đến khi hon nn thì nào thy ai!

Có vt v mi thanh nhàn,

Không dưng ai d cm tàn che cho.

u em không phải em giòn,

u em chất phác, việc làm siêng năng.

Anh ơi! C chí canh nông,

Chín phn, ta cũng d trong tám phn.

Hay gì đ rung mà ngăn,

Làm rung ly lúa, chăn tm ly tơ.

Tm có la, rung có mùa,

Chăm làm, Tri cũng đn bù có khi…

Vất vả mới có thanh nhàn,

Không dưng ai dễ đem phần đến sao!

Làm nên quan thấp, quan cao,

Làm nên võng tía, võng đào nghinh ngang.

Mặt trời đã mọc đàng đông,

Em ơi! Thức dậy ra đồng ko trưa.

Thế gian kẻ cấy người bừa,

Riêng em ngủ sớm, dậy trưa sao đành.

Mặt trời tang tảng rạng đông,

Chàng ơi! Trở dậy ra đồng ko trưa.

Phận hèn bao quản nắng mưa,

Cày sâu, bừa kỹ được mùa có phen.

Mặt trời đã hé rạng đông,

Chàng ơi! Trở dậy ra đồng ko trưa.

Cơm ăn bao quản muối dưa,

Việc làm bao quản nắng mưa dãi dầu.

Ngày đêm ta phải lo âu,

Chăm sao cho được hoa màu tốt tươi.

Na đêm sao sáng mây cao,

Triu tri nng gt, nng gào chng sai.

Lúa khô, nưc cn, ai ơi!

R nhau tát nưc, ch tri còn lâu.

            Rng ngày vác cày ra đng,

            Tay cm mi la, tay dòng thng trâu.

            Rung đm nưc c, bùn sâu,

            Sut ngày cùng vi con trâu cày ba.

            Ơn tri mưa nng phi thì,

            Nơi thì ba cn, nơi thì cày sâu.

            Công lênh chng qun bao lâu,

            Ngày nay nưc bc, ngày sau cơm vàng.

            Ai ơi! Ch b rung hoang,

            Bao nhiêu tc đt, tc vàng by nhiêu.

Làng ta bé nhcon con,

Tháng ngày cày ruộng, cuốc nương nhc nhằn.

Trông cho mau sáng, mau ngày,

Em mang phân đi vãi, anh vác cày theo sau.

Trời mưa, tri gió đùng đùng,

Cha con chú Sùng đi gánh phân trâu.

Đem về trồng bí, trồng bầu,

Trồng rau, trồng đậu, trồng cau, trồng da.

Tháng giêng chân bước đi cày,

Tháng hai vãi lúa, ngày ngày siêng năng.

Thuận mưa, lúa tốt đằng đằng,

Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà.

Vất vả, có lúc thanh nhàn,

Không dưng ai dmang tàn che cho.

Kể như nhng kẻ lười ngu,

Hay ăn mà chẳng hay lo, hay làm.

Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn.

Rạng ngày vác cày ra đồng,

Tay cầm mồi lửa, tay dòng thừng trâu.

Ruộng đầm nước cả bùn sâu,

Suốt ngày cùng vi con trâu cày bừa.

Việc làm chẳng quản nắng mưa,

Cơm ăn đắp đổi muối dưa tháng ngày.

Ai ơi! Bưng bát cơm đầy,

Biết công kẻ cấy, người cày mấy nao!

    Không những chịu khó làm việc, không ăn không ngồi rồi, người bình dân còn thể hiện sự nhẫn nại, miệt mài, kiên trì, cần mẫn trong công việc làm ăn:

  • Cần cù trong lao động:

Cn cù bù thông minh

Nghé ơi, ta bảo nghé này,

Nghé ăn cho béo, nghé cày cho sâu.

Ở đời khôn khéo chi đâu,

Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.

Đại phú do thiên, tiểu phú do cần,

Thức khuya, dậy sớm, tảo tần cho quen.

Trăm năm trong cõi tri chung,

Trăm nghề cũng phải có công mới thành.

Cứ trong gia nghip nhà mình,

Ngày đêm xem sóc giữ gìn làm ăn.

Chữ rằng: “Tiểu phú do cần”

Còn như “đại phú” là phần “do thiên”.

Đừng trễ nải, chớ ghét ghen,

Còn như lộc nước có phen di dào.

Có làm thì mới có ăn,

Không dưng ai dễ đem phần đến cho.

Muốn no thì phải chăm làm,

Một hạt thóc vàng, chín hạt mồ hôi.

Kể chi tri rét đồng sâu,

Có chồng, có vợ rủ nhau cày bừa.

Bây giờ trưa đã hồ trưa,

Chồng vác cây bừa, vợ dắt con trâu.

Một đoàn chng, vợ trước sau,

Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng.

Canh một chửa nằm, canh năm đã dậy.

Đầu tắt, mặt tối.

Có chí thì nên.

Thua keo này, bày keo khác.

Có công mài st, có ngày nên kim.

Dẫu rằng chí thiển tài hèn,

Chịu khó nhẫn nại làm nên cơ đồ.

Năm canh thì ngủ lấy ba,

Hai canh lo lng vic nhà làm ăn.

Quanh năm cy hái, cày ba,

V chiêm thì h, v mùa thì đông.

Ai v nhn ch, em cùng,

Mun cho sung sưng, ngh nông phi cn.

Dưa gang, mt, chp thì trng,

Chiêm cy trưc Tết thì lòng đ lo.

Tháng hai đi tu trâu, bò,

Cày đt cho i, m mùa ta gieo.

Tháng sáu mà cy m già,

Thà rng công y nhà m con.

Tháng chp mà cy m non,

                         Thà rằng công ấy ẵm con ở nhà.

Tháng chạp là tiết trồng khoai,

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.

Tháng ba cày vỡ ruộng ra…

Tháng tư đi tậu trâu bò,

Để cho ta lại làm mùa tháng năm.

Sáng ngày đem lúa ra ngâm,

Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.

nh đi, ta ném ruộng ta,

Đến khi lên mạ thì ta nhổ về.

Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,

Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.

Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,

Nước ruộng vơi đầy còn độ một hai.

Ruộng cao đóng một gàu giai,

Ruộng thấp thì phải đóng hai gàu sòng.

Chờ cho lúa có đòng đòng,

Bây giờ ta sẽ trả công cho người.

Bao gicho đến tháng mười,

Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.

Gặt hái ta đem về nhà,

Phơi khô, quạt sạch, mới là xong công.

Tháng chạp là tháng trồng khoai,

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.

Tháng ba cày vỡ ruộng ra,

Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.

Ai ai cũng vợ cũng chồng,

Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay.

Tháng năm gặt hái đã xong,

Nhờ Trời một mẫu năm nong thóc đầy,

m nong đầu em xay, em giã,

Trấu ủ phân cám bã nuôi heo.

Sang năm lúa tốt tiền nhiều,

Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.

Khéo thay công vic nhà quê,

Quanh năm khó nhc, dám h khoan thai.

Tháng chp thì mc trng khoai,

Tháng giêng trng đu, tháng hai trng cà.

Tháng ba cày v rung ra,

Tháng tư bc m, thun hoà mi nơi.

Tháng năm gt hái va ri,

c sang tháng sáu, nưc trôi đy đng.

Nhà nhà, v v, chng chng,

Đi làm ngoài đng, sá k sm trưa.

Tháng sáu, tháng by đang va,

Vun trng ging lúa, b cha c tranh.

Tháng tám lúa tr đã đành,

Tháng mưi ct hái cho nhanh kp ngưi.

Khó khăn làm my tháng tri,

Li còn mưa nng bt thi ch trông.

Ct ri, np thuế nhà công,

T rày mi đưc yên lòng, m no.

Kể việc làm ruộng mọi đường,

Tôi xin kể được rõ ràng hử ai.

Tháng chạp là tiết trồng khoai,

Tháng giêng tưới đậu, tháng hai cấy cà.

Tháng ba cày bửa ruộng ra,

Tháng tư bắc mạ, thuận hoà vui thay.

Tháng năm cắt lúa vừa rồi,

Tháng sáu mưa xuống, nước trôi đầy đồng.

Tháng bảy cày cấy đã xong,

Tháng tám thấy lúa tốt lòng vui thay.

Tháng chín tôi lại kể nay,

Bắc mạ xem được mới hay trong lòng.

Tháng mười lúa chín đầy đồng,

Cắt về đổ cót, đề phòng năm sau.

Tháng mười một là tiết cấy sâu,

Một năm kể cả t đầu đến đuôi.

Tháng chín thì quýt đỏ trôn,

Tháng hai ngi mọc,i con tìm về.

Tháng tư đi tậu trâu bò,

Để cho ta lại làm mùa tháng năm.

Sớm ngày đem lúa ra ngâm,

Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.

nh đi ta ném ruộng ta,

Đến khi lên mạ thì ta nhổ về.

Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,

Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.

Một năm chia mười hai kỳ,

Thiếp ngồi thiếp tính khó gì chẳng ra.

Tháng giêng ăn tết ở nhà,

Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm.

Tháng ba đi bán vải thâm,

Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về.

Tháng sáu em đi buôn bè,

Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô.

Chín, mười cắt rạ đồng mùa,

Một chạp vớ được anh đồ dài lưng.

Anh ăn, rồi anh li nằm,

Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền.

Chẳng thà lấy chú lực điền,

Gạo bồ, thóc giống còn phiền nổi chi.

    Chịu khó cần cù lao động, một yếu tố khẩn thiết cho việc phát triển kinh tế, người Tin lành theo hệ phái Calvin còn xem hoang phí là một tội lỗi.  Người bình dân Việt Nam cũng

  • Khuyên lơn không nên chơi bời, phung phí, phải nghĩ đến ngày mai:

Giàu tiêu hoang không bng nghèo cht mót.

Ít chắt chiu hơn nhiều hoang phí.

Ở trên đời ăn chơi thú vị,

Điếu thuốc giải phiền vi chị đương xuân.

Mơ màng quán Sở, lầu Tần,

Đồ chơi hài hán, áo quần bảnh bao.

Đồ chơi vắt vẻo võng đào,

Đồ chơi ghế chéo, ngi cao ngựa bành.

Nhập nhoè trên trướng dưới mành,

Bốn mùa thắp ngọn đèn xanh chơi bời.

Rồi trên đời không ai bạn nữa,

Rồi gia tài, nhà cửa sạch không!

Khi xưa áo thắm, quần hồng,

Mùa hè lương cấp, mùa đông kéo mền.

Bây giờ cắp nách, vo viên,

Tả tơi rách rưới, đảo điên bơ phờ.

Nhà không lạnh ngt như tờ,

Ngày trông nắng dọi, đêm chờ trăng soi.

  • Để thuyết phục, người bình dân còn đi xa hơn nữa: Đả kích hoang phí bằng những thí dụ cụ thể về những kết quả tệ hại của hành vi hoang phí:

Phong lưu, rách một ống quần,

Còn một ống nữa, dần dần rách sau.

Phong lưu là cạm ở đời,

Vẫn quen đánh b[bẩy] lấy người hồng nhan.

Phong lưu là cạm ở đời,

Hồng nhan là bả những người tài hoa.

 Phí ca tri, mưi đi chng có.

Lm bc tiêu pha, chân sa vào lưi.

    Trái ngược với hoang phí là sự tằn tiện. Trong lúc các Tổ phụ Thanh giáo đến Tân Thế Giới xem sự làm việc cần cù và tiết kiệm là hai mái chèo của con thuyền mà tín hữu dùng để đi đến Thượng đế thì người bình dân Việt Nam

  • Nhiệt liệt cổ vũ sự cần kiệm:

Nhn thuc mua trâu, nhn tru mua rung.

Cũ người mới ta. [One man’s trash is another man’s treasure]

Kiến tha lâu đy t.

Ăn ba trưa, cha ba ti.

Ăn cht, đ dành.

Ăn c môn ba mai, đ c khoai ba mt.

Ăn ti, lo mai.

Ăn trái, phi dành trái xanh.

Ăn xưa, cha nay.

Tích thiu thành đa.

Tích thiu thành đi.

ch tiu vi đi.

  • Và để thuyết phục về giá trị của tằn tiện, người bình dân đã trưng dẫn những kinh nghiệm về hậu quả tốt đẹp do cần kiệm đem lại cũng như những hậu quả tệ hại vì không cần kiệm:

Buôn Ngô, buôn Tàu không giàu bng hà tin.

Hà tin mi giàu, cơ cu mi có.

Giàu không hà tiện, khó liền trong tay,

Khó không hà tiện, khó ăn mày.

Buôn thuyn buôn vã chng đã hà tin.

Buôn tàu bán bè chng bng ăn dè hà tin.

Buôn tàu, buôn bè không bng ăn dè hà tin.

Chng lo trưc, t lu sau.

Ăn không lo, ca kho cũng hết.

Bán cám ngon canh,

Nuôi ln thì lành áo.

Chng cn, v kim là tiên,

Ngông nghênh, nhăng nhít là tin b đi.

Vng ăn vng tiêu, vơi niêu vơi ni.

Làm ngưi chng biết lo xa,

Tr trung đã vy, tui già làm sao.

Làm ngưi cho biết tin tn,

Đ ăn thc mc, có ngn thì thôi.

Nhng ngưi đói rách rc rài,

Bi ph ca tri, làm chng nên ăn.

Tích cc phòng cơ, tích y phòng hàn.

Làm khi lành, đ dành khi đau.

Tiết kim có sn đng tin,

Phòng khi túng thiếu, không phin lu ai.

Làm ngưi ch biết tin tn tn,

Đ ăn, thc mc, có ngn thì thôi.

Nhng ngưi đói rách rc ri,

Bi ph ca tri làm chng nên ăn.

Ăn thuc bán trâu, ăn tru bán rung.

    Có lẽ người ta thường có ý nghĩ là người bình dân Việt Nam có khuynh hướng bám chặt vào làng, xã của mình và không muốn đi xa. Tuy nhiên, trên thực tế, người bình dân rất ham mê phiêu lưu, mạo hiểm để gia tăng kiến thức :

Đi cho biết đó, biết đây,

nhà vi m biết ngày ngào khôn.

Đi mt ngày đàng, hc mt sàng khôn.

    Nguyễn Công Trứ, một danh thần triều Nguyễn và là một nhà thơ nổi tiếng, cũng bày tỏ cùng tâm nguyện, chí phiêu lưu:


Vùng trời đất dọc ngang ngang dọc,

Nợ tang bồng vay trả, trả vay.

Chí làm trai nam bắc đông tây,

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.

    Và nếu không muốn đi cho biết đó, biết đây thì sẽ bị đánh giá không khác gì

ch ngi đáy giếng thy tri bng vung.

    Ngoài ra, người bình dân còn tỏ ra rất tháo vát trong công việc làm ăn của mình. Điều này không những được chứng minh qua câu tục ngữ

Ming nói, tay làm

mà còn có thể được chứng minh qua sự quan sát sự linh động xoay xở hằng ngày của các tiểu thương, trong thực tế hiện tại, của các quán ăn vĩa hè trên toàn quốc. Những chủ tiệm/quán ăn vĩa hè đặt mua hàng tấn thịt mỗi ngày mà chỉ trong vài tiếng đồng hồ là đã chuẫn bị xong hàng sẵn sàng để bán. Khách mua đông nghịt, nhưng những người bán hàng này vẫn miệng nói, tay làm một cách nhanh nhẹn, gọn gàng, sạch sẽ, theo đúng thứ tự chờ đợi của khách hàng trong lúc vẫn có thể nhận tin nhắn của khách mua hàng qua điện thoại di động. Và trong đa số những cuộc giao dịch tiểu thương này, chủ tiệm, thường là phụ nữ không có trình độ học vấn cao, còn có khả năng sử dụng các ứng dụng (apps) điện tử để gia tăng lượng hàng bán.

    Tóm lại, người bình dân Việt Nam có tất cả những đặc tính cần thiết cho việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho cá nhân, và do đó cho quốc gia.

    Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là tại sao người bình dân Việt Nam – chiếm tỉ lệ dân số khoảng 90% – mãi cho đến cuối thế kỷ 20, hội đủ những đặc tính cần thiết cho việc phát triển thương mại và kĩ nghệ mà sự phát triển kinh tế quốc gia vẫn cứ trì trệ? Phải chăng là vì chiến tranh liên tục tàn phá đất nước khiến người dân không có cơ hội thực hiện những dự án của mình? Phải chăng là vì Khổng giáo mang tính độc tôn áp đặt người dân phải chỉ thờ vua và ngành nghề duy nhất được tôn vinh là nghề làm quan cai trị dân với nấc thang giá trị “sĩ, nông, công, thương”. Kẻ sĩ làm quan, danh giá được sắp hàng đầu trong nấc thang xã hội. Thứ đến là người làm ruộng, suốt kiếp tôi đòi đóng thuế cho vua, quan. Nghề sản xuất và thương mại đáng lí phải được tôn trọng vì cần thiết cho sự phát triển kinh tế quốc gia, lại bị xếp vào nấc thang cuối cùng của xã hội và thường bị khinh miệt vì lí do lái buôn hay gian dối. Với một lối tư duy như thế trong suốt mấy ngàn năm thì đầu óc của người dân không thể nào không bị ảnh hưởng.

    Đến hậu bán thế kỷ 19, khi người Pháp đến xâm chiếm và đô hộ nước ta, họ mang theo cả hệ thống giáo dục của họ bao gồm những giá trị của cuộc Cách Mạng Pháp (1787-1799) với khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Tứ hải Giai Huynh Đệ*” và nhiều giá trị nhân bản khác qua lịch sử và văn chương Pháp. Hiện tượng này đã ảnh hưởng rất mạnh – dĩ nhiên là ngoài dự tính của người Pháp – lên tầng lớp sĩ phu Việt Nam vào những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, cộng thêm ảnh hưởng của Tự Lực Văn Đoàn đả kích những hủ tục cố hữu làm trì chậm sự tiến hoá của văn minh. Kết quả là lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20 đã nở rộ những phong trào cách mạng tranh thủ giành lại độc lập cho đất nước, như phong trào Cần vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, chiến dịch Bãi Sậy, Phong trào Việt Minh, Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, v.v…

    Những biến cố gây ảnh hưởng mang tính nhân quyền này hẳn đã thay đổi thái độ của giới trí thức đối với lập trường của người bình dân thôn dã trong ý thức phổ biến về bình quyền và cũng rất có thể là đòn bẩy thúc dục tâm tư của người bình dân Việt Nam luôn luôn âm ỷ mầm mống đối kháng cách mạng tư tưởng và ước mơ thực hiện giấc mộng phát triển kinh tế của mình:

                        Nht sĩ, nhì nông.

                        Hết go chy rông,

                        Nht nông, nhì sĩ.

    Và họ hoàn toàn tin tưởng vào giấc mộng đã ấp ủ từ lâu này như là một sự thật hiển nhiên: “phi thương bất phú”. Không buôn bán thì không thể giàu được.  Làm giàu là mộng ước của người dân:

Buôn Ngô, buôn Tàu không giàu bng hà tin.

Hà tin mi giàu, cơ cu mi có.

Rủ nhau đi cấy đi cày,

Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

    Tuy người bình dân Việt Nam hội đủ những đặc tính cần thiết cho việc phát triển kinh tế, nhưng họ phải có cơ hội để thể hiện những đặc tính này, nghĩa là họ phải có tự do phát huy khả năng của họ. Từ 1954 đến 1975, người dân ở miền bắc vĩ tuyến 17, dưới chế độ cộng sản toàn trị, người dân không được phép tự do sinh hoạt kinh tế mà phải sinh hoạt trong phạm vi luật lệ khắt khe, bóc lột của những hợp tác xã sản xuất nên đã hoàn toàn trở nên nghèo đói, xơ xác, trong lúc ở miền Nam tự do, mặc dù chiến tranh hạn chế phần nào khả năng sản xuất, người Việt sống sung túc hơn nhiều, làm choáng ngợp người dân miền Bắc khi họ xâm chiếm miền Nam năm 1975 và chứng kiến tận mắt sự giàu có của người dân miền Nam (Xem Nhng Thiên Đưng Mù của Dương Thu Hương). Miền Nam tự do trù phú đã từng là giấc mơ của Nam Hàn.

    Sau khi chiếm được miền Nam năm 1975, chế độ cộng sản Việt Nam, cai quản toàn cõi đất nước, vẫn tiếp tục áp dụng chính sách “kinh tế chỉ huy” từ 1975 đến 1985, qua chế độ bao cấp, nên đã biến miền Nam phồn thịnh thành nghèo đói, cơ cực như miền Bắc mặc dù không còn chiến tranh nữa. Nhưng nhờ sự thức tỉnh “đổi mới” của chế độ cộng sản năm 1985, theo đuôi mô thức kinh tế của Đặng Tiểu Bình, ngược với niềm tin chính thống của chủ thuyết Mác-Lê, lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã áp dụng chính sách “kinh tế thị trường”, nghĩa là tự do kinh doanh, nên đã đem lại sinh lực của người dân đầu tư vào việc phát triển kinh tế cho cá nhân, và do đó, cho quốc gia. Người ta chứng kiến sinh lực này của người dân tự phát một cách mãnh liệt ở giới tiểu thương và tiểu công nghệ, vì họ được tự do sinh hoạt vì tư lợi, theo sáng kiến của riêng mình. Người ta đang chứng kiến những người này cần cù lao động, hằng ngày thức khuya đến 11, 12 giờ đêm và dậy sớm từ 2 hay 3 giờ sáng để lo buôn bán, tảo tần. Thị trường tấp nập kẻ mua, người bán luôn tay, không ngưng nghỉ. Tuy nhiên, với cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” gắn vào sau “kinh tế thị trường”, nghĩa là những dự án lớn về kinh doanh, kĩ nghệ ở tầm mức quốc gia đều do chính phủ (Đảng Cộng sản) quản lí hoặc do tư nhân hay nhóm lợi ích có liên hệ gia đình hoặc làm ăn bất chánh với quan chức cao cấp của chính phủ. Những chương trình quốc doanh luôn luôn gây thâm thủng ngân sách và dự án thường không thành công hay ngưng hoạt động giữa chừng, hoặc bị bỏ hoang. Những chương trình tư nhân thì thường được thông qua các vụ thầu thiên vị vì tham nhũng, lũng đoạn ngân sách quốc gia. Không ngày nào mà người ta không thấy báo chí đề cập đến các quan chức cao cấp của chế độ với mức lương khoảng 600 đến 800 đô mỗi tháng mà có nhà đáng giá hàng chục triệu đô. Ngay cả những quan chức cấp quận, xã cũng có nhà đáng giá từ 6, 7 trăm ngàn đến một vài triệu đô. Cái đuôi “định hướng xã hội này” – một quái thai được sinh ra từ cuộc hôn nhân miễn cưỡng giữa kinh tế thị trường của tư bản và kinh tế chỉ huy của cộng sản – đã gây ra bao nhiêu là tệ nạn xã hội vì chính quyền độc tôn đảng trị không có luật pháp công minh vì không có tam quyền phân lập, gây ra tham nhũng tràn lan không ngăn cản được. Nạn buôn người ra nước ngoài làm nô lệ tình dục hoặc nô lệ lao động rất phổ biến, cũng như buôn thuốc phiện lậu, đĩ điếm, trộm cướp, bao che gian lận sòng bạc, đàn áp dân oan, hạ tằng cơ sở của đất nước bị hư hại, môi sinh bị tàn phá khó hồi phục trong tương lai. Tệ hại nhất là chính sách này đã kéo lui, làm trì trệ đà tiến của một dân tộc trẻ trung (trên 60% dân số dưới tuổi 40) đầy tiềm năng và sinh lực đang trên con đường phát triển thương mại và kĩ nghệ, và đã đánh mất, trong 47 năm qua, cơ hội đất nước có thể đã trở thành con rồng Đông Nam Á vươn lên trong sự phồn thịnh và văn minh cùng với những quốc gia tiến bộ trên thế giới.

Tiu Thch Nguyễn văn Thái, Ph.D.

North Wales, Pennsylvania

Ngày 2 Tháng 9 Năm 2022

__________________________________

THAM KHẢO

Peyrefitte, Alain. Le Mal Français. @Alain Peyrefitte et Librairie Plon, 1976.  

*Từ “Fratrenité” được dịch là “Tứ hải giai huynh đệ” thay vì tình anh em, tình huynh đệ, tình đồng đội, hay ngay cả bác ái bởi vì “fraternité” trong cụm từ “liberté, égalité, fraternité” được rút ra từ bản Hiến pháp năm 1848 của Pháp với ngữ nghĩa là sự đoàn kết trong ý nghĩa “tương trợ xã hội” và “khả năng sống chung với nhau” (khoan dung, độ lượng và tôn trọng tha nhân). https://www.vie-publique.fr/dossier/276089-liberte-egalite-fraternite.