Cuộc đụng độ là một cột mốc quan trọng đối với yêu sách của Hà Nội ở Biển Đông – nhưng việc đánh dấu kỷ niệm 50 năm tuyên bố chủ quyền đòi hỏi phải thảo luận về chính phủ miền Nam Việt Nam.
Bởi Christelle Nguyễn Ngày 19 tháng 1 năm 2024
Hình: Một người biểu tình Việt cầm tấm áp phích có hình cố thuyền trưởng Ngụy Văn Thà, người hy sinh trong trận chiến ở quần đảo Hoàng Sa, trong cuộc tuần hành tại vườn vua Lý Thái Tổ nhân kỷ niệm 40 năm trận hải chiến chết chóc giữa Trung Quốc và miền Nam Việt Nam, tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 19 tháng 1 năm 2014. Một phần tấm áp phích có dòng chữ “Mãi mãi biết ơn anh hùng Ngụy Văn Thà và đồng đội”.
‘Tang Guoqiang, được biết đến với tên tiếng Việt là Đường Quốc Cường, là một trong những diễn viên Trung Quốc đại lục nổi tiếng nhất tại Việt Nam. Đường Tăng đặc biệt được biết đến với vai diễn các nhân vật lịch sử nổi bật trong các bộ phim truyền hình cổ trang, vốn là những bộ phim chủ yếu trên truyền hình Việt Nam vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, chủ yếu với vai cố vấn quân sự Zhu Geliang trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc “Tam Quốc Diễn Nghĩa”. một biểu tượng của trí tuệ cổ xưa trong văn hóa đại chúng Việt Nam.
Khán giả Việt Nam ít biết rằng vai diễn đầu tay của ông là trong một bộ phim điện ảnh vào năm 1976. “Bão Biển Đông” (南海风云), do xưởng sản xuất phim quân sự duy nhất ở Trung Quốc sản xuất, mô tả Trận chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa hai nước. Trung Quốc đại lục và miền Nam Việt Nam.
Đường Tăng đóng vai một ngư dân lạc quan và chăm chỉ ở quần đảo Hoàng Sa giàu tài nguyên, tiếng Trung gọi là “Xisha” và tiếng Việt là “Hoàng Sa”. Nhân vật của Đường Tăng chứng kiến sinh kế và gia đình của mình bị ảnh hưởng thảm hại bởi sự quấy rối liên tục của quân đội miền Nam Việt Nam ở Biển Đông. Quyết tâm trả thù, anh trở thành thủ lĩnh của hải quân Trung Quốc. Những ngư dân kiên cường, được tôi luyện bởi tinh thần Cách mạng Văn hóa và được truyền cảm hứng từ sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, sau này đã góp phần vào chiến thắng của Trung Quốc trước đội quân “đế quốc” do tổng thống miền Nam Việt Nam tham nhũng và hèn nhát Nguyễn Văn Thiệu gửi đến.
Kịch bản của bộ phim phù hợp với phiên bản chính thức của Trung Quốc về cuộc xung đột xảy ra vào ngày 19-20 tháng 1 năm 1974, mặc dù các cuộc giao tranh đã diễn ra vài ngày trước đó để xác định quyền kiểm soát quần đảo lúc bấy giờ không có người ở. Trong tiếng Trung, trận chiến ngắn ngủi này được gọi là “Cuộc chiến tự vệ Tây Sa” (西沙自卫反击战), trái ngược với tên tiếng Việt là Hải chiến Hoàng Sa (Hải chiến Hoàng Sa).
Trong nhiều năm, Việt Nam giữ im lặng về chiến tranh, thậm chí còn đàn áp quy mô lớn nỗ lực tưởng nhớ các quân nhân đã hy sinh, đã chiến đấu thay mặt cho miền Nam Việt Nam. Giờ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tưởng nhớ trận chiến Hoàng Sa đã bị lãng quên từ lâu năm 1974, dù một cách thận trọng và có chọn lọc.
Một mặt, Hà Nội cần bằng chứng lịch sử về sự xâm lấn của Trung Quốc để khẳng định yêu sách lãnh thổ của mình ở Biển Đông ngày càng căng thẳng hiện nay. Một nước Việt Nam thống nhất do ĐCSVN lãnh đạo kế thừa các yêu sách lãnh thổ của miền Nam Việt Nam (còn gọi là Việt Nam Cộng hòa) đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặt khác, nó phải đối mặt với tình thế khó xử khi thừa nhận chính phủ miền Nam Việt Nam, vốn là kẻ thù của nó trong và thậm chí sau Chiến tranh Việt Nam.
Lịch sử trận chiến, Trận chiến lịch sử
Theo cuốn sách năm 2009 của Chen Meifang, “Bảo vệ Tây Sa: Các hoạt động phản công tự vệ của PLA tại quần đảo Tây Sa,” ông Mao ở tuổi 80 đã đưa ra quyết định chiến tranh cuối cùng bằng nét bút và hai ký tự, viết “同意” ( đồng ý) về báo cáo của Chu Ân Lai cáo buộc Nam Việt Nam “bá quyền và bành trướng” trong lãnh hải của Trung Quốc. Mao giao Ye Jianying và Đặng Tiểu Bình, những người sau sự phục hồi của ông trong Cách mạng Văn hóa, phụ trách.
Trong trận chiến sau đó, Trung Quốc nhanh chóng đánh bại quân đội miền Nam Việt Nam, lúc đó phần lớn đã bị các đồng minh trước đó bỏ rơi. Hơn 100 lính Nam Việt Nam thiệt mạng hoặc bị thương, trong khi 48 lính Việt Nam Cộng hòa và một sĩ quan liên lạc Mỹ bị bắt, so với 18 lính Trung Quốc thiệt mạng và 67 người khác bị thương. Trung Quốc tự hào vì đã giành chiến thắng trong trận chiến trên biển đầu tiên.
Công dân Trung Quốc đã chiếm đóng các hòn đảo kể từ đó. Đảo Phú Lâm lớn nhất hiện có dân số thường trú là 1.000 người. Hiện nay nó là thủ đô của Thành phố Tam Sa, đơn vị hành chính mà Trung Quốc tuyên bố kiểm soát tất cả các thực thể biển ở Biển Đông.
Nhà sử học George J. Veith, tác giả cuốn sách “Rút kiếm ở một vùng đất xa xôi: Những giấc mơ tan vỡ của miền Nam Việt Nam” xuất bản năm 2021, cho biết rằng trong khi chính quyền Sài Gòn mong muốn duy trì quyền kiểm soát khu vực thì các hòn đảo này rất khó bảo vệ, bất chấp chính sách của Nam Việt Nam. những nỗ lực kéo dài nhiều năm để đòi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Vào thời điểm xảy ra xung đột, miền Nam Việt Nam đã bố trí một đồn trú nhỏ trên một hòn đảo và duy trì hoạt động tuần tra hải quân trong khu vực.
“Tàu Hải quân Việt Nam là những chiếc thuyền cũ của Thế chiến thứ hai do Mỹ cung cấp, hòn đảo này khó tiếp tế và phạm vi hoạt động của máy bay chiến đấu từ các sân bay Đà Nẵng gần như giới hạn phạm vi nhiên liệu của F-5. Vì vậy, trong khi Sài Gòn muốn kiểm soát quần đảo và cố gắng làm điều đó thì họ lại gặp khó khăn”, Veith nói qua email.
“Mặt khác, người Trung Quốc có thể đưa tàu đến gần các đảo. Sau nhiều hành động khiêu khích khác nhau của Trung Quốc, trận hải chiến ngắn ngủi đã dẫn đến thất bại cho miền Nam Việt Nam.”
Miền Nam Việt Nam sắp sụp đổ được tự do vận động. Năm 1972, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã tới Bắc Kinh và bắt đầu quá trình bình thường hóa quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC). Nhật Bản cũng đã thực hiện một động thái tương tự, mặc dù Tokyo vẫn tiếp tục hỗ trợ Sài Gòn cho đến ngày tận thế năm 1975. Pháp công nhận Trung Quốc và thúc đẩy Mỹ rút quân khỏi Việt Nam.
Sau khi ký kết Hiệp định Hòa bình Paris năm 1973, nhiều nước phương Tây bắt đầu hợp tác với chính quyền Bắc Việt. Đài Loan, một đồng minh của miền Nam, không nêu rõ lập trường của mình đối với quần đảo Hoàng Sa, mặc dù nhiều nguồn tin từ Trung Quốc đại lục cho biết chính phủ Tưởng Giới Thạch ngầm hợp tác với Trung Quốc. Vào thời điểm đó, Đài Bắc vẫn bám chặt vào giấc mơ hoang đường là chiếm lại đại lục và do đó, một chiến thắng của PLA sẽ được coi là có lợi cho việc cuối cùng Trung Hoa Dân Quốc giành được quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa.
Tổng thống Thiệu liên tục yêu cầu tài trợ quân sự của Hoa Kỳ đều vô ích. Trong khi đó, quân đội miền Nam Việt Nam bị kiệt quệ cả về kinh tế lẫn tinh thần. Vũ Văn Lộc, nguyên đại tá Chính phủ miền Nam phụ trách hậu cần chỉ huy chiến tranh sau khi Mỹ rút quân, cho rằng Quân đội Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) lúc đó chưa chuẩn bị tốt cho trận chiến.
Tiến sĩ Sean Fear từ Đại học Leeds đồng ý và nói qua email: “Tôi nghi ngờ rằng tinh thần của binh lính QLVNCH tham gia vào tình tiết này sẽ cao, chủ yếu dựa trên ấn tượng của tôi về các sự kiện ở nơi khác cùng thời điểm.”
Trong nỗ lực cuối cùng, miền Nam Việt Nam đã phản đối Liên Hiệp Quốc, nhưng Trung Quốc, có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc – nơi Bắc Kinh đã thay thế Đài Loan kể từ năm 1971 – đã ngăn chặn mọi nỗ lực đưa vấn đề này lên. Theo Phó Giáo sư Nguyễn Thị Hạnh tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, trong cuốn sách “Les Conflit Frontaliers Sino-Việt Nam” xuất bản năm 2018, Liên Hiệp Quốc đã từ chối can thiệp vào cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam Cộng hòa liên quan đến tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Vào tháng 1 năm 1974 Bắc Việt đã không tham gia nỗ lực này, diễn ra trong thời kỳ căng thẳng với Trung Quốc. Sáng kiến của Tổng Bí thư Lê Duẩn thảo luận vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa với Phó Thủ tướng Trung Quốc lúc đó là Đặng Tiểu Bình trong chuyến thăm Bắc Kinh vào tháng 9 năm 1975, sau khi Sài Gòn thất thủ, đã bị bác bỏ. Đặng nói rằng lập trường của mỗi nước “đã rõ ràng”.
Năm 1977, Chính phủ Việt Nam ra “Tuyên bố về Lãnh hải, Vùng tiếp giáp, Vùng đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa”, trong đó khẳng định quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Anh hùng hay kẻ thù?
Thất bại trong Trận chiến quần đảo Hoàng Sa mâu thuẫn với thông tin chính thức về việc Việt Nam giành chiến thắng trong các trận chiến khác nhau, chủ yếu là chống lại Trung Quốc. Chính Việt Nam đã chịu tổn thất – nhưng chưa thống nhất được đất nước Việt Nam như ngày nay.
Sách giáo khoa quốc gia lấy Hà Nội làm trung tâm che giấu giới trẻ Việt Nam sự thật rằng, cho đến khi Sài Gòn sụp đổ, chính quyền Bắc Việt chỉ được một số quốc gia khác công nhận, chủ yếu là từ khối Cộng sản. Bắc Việt không phải là thành viên chính thức của Liên Hiệp Quốc.
Ngược lại, chế độ miền Nam được Liên hợp quốc và gần 90 quốc gia công nhận.
Điều này làm phức tạp thêm sự tưởng nhớ chính thức, vì chính miền Nam Việt Nam đã dẫn đầu các nỗ lực duy trì chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Điều đó liên quan đến sự hợp tác với nhiều quốc gia. Thiệu yêu cầu Pháp cung cấp đầy đủ tài liệu về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông.
Vào tháng 10 năm 1973, chỉ vài tháng trước trận chiến Hoàng Sa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, được truyền thông phương Tây gọi là “Việt Cộng”, đã công bố ý định giải phóng các khu vực “bị kẻ thù chiếm đóng trái phép”.
Kẻ thù ở đây ám chỉ chính quyền miền Nam do Thiệu lãnh đạo. Đáp lại, Thiệu tuyên bố: “Chính chúng ta phải tự cứu lấy mình” và ra lệnh cho quân của mình chiến đấu quyết liệt. Ông thậm chí còn tới Đà Nẵng để giám sát lực lượng của mình chịu trách nhiệm phòng thủ quần đảo Hoàng Sa, nhưng nỗ lực này đều vô ích.
Lập trường của ĐCSVN đã thay đổi khi họ lãnh đạo một nước Việt Nam thống nhất. Giờ đây, chính ĐCSVN phải giải quyết sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông và cung cấp bằng chứng lịch sử về các yêu sách lãnh thổ của Việt Nam. Trong những trường hợp này, chế độ cũ ở miền Nam được gọi là Việt Nam Cộng hòa (VNCH) thay vì “chế độ bù nhìn”.
Chẳng hạn, tại Đài tưởng niệm Hoàng Sa ở thành phố Đà Nẵng, được xây dựng vào năm 2016, chính quyền miền Nam Việt Nam được gọi là VNCH, nhưng tại các bảo tàng lịch sử khác của cùng thành phố, nó vẫn được gọi là chế độ bù nhìn.
Tuy nhiên, những đội quân chiến đấu thay mặt cho miền Nam Việt Nam, kể cả trong trận Hoàng Sa, đã không nhận được bất kỳ lời cảm ơn nào từ ĐCSVN. Hoàn toàn ngược lại.
Sau khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4 năm 1975, các quan chức quân sự và dân sự của chế độ miền Nam bị đưa đến các trung tâm cải tạo theo mô hình của Trung Quốc. Họ cũng bị từ chối một số cơ hội dạy nghề và giáo dục nhất định trong xã hội xã hội chủ nghĩa mới. Nhà sử học Vũ Minh Hoàng mô tả điều này là “không cần thiết và lãng phí” trong chương sách “Tái chế Bạo lực: Lý thuyết và thực hành Trại cải tạo ở Việt Nam thời hậu chiến.”
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ phục vụ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam 30 năm rồi trở thành nhà bất đồng chính kiến, hiện sống ở Hoa Kỳ. Cha ông là nhà thơ, Bộ trưởng nổi tiếng Cù Huy Cận, người đã cùng Hồ Chí Minh ký Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Tiến sĩ Cù đã tiến hành nghiên cứu sâu rộng, bao gồm các cuộc phỏng vấn với người nhà của một số sĩ quan quân đội bị giam giữ dưới chế độ miền Nam Việt Nam trước đây, sau đó được ghi lại và chia sẻ trên các kênh truyền thông quốc tế. Tháng 8 năm 2010, ông trình Quốc hội Việt Nam đề nghị ân xá các sĩ quan quân sự và dân sự từng phục vụ dưới chế độ miền Nam Việt Nam (1954-1975).
“Trớ trêu thay, giới lãnh đạo nước Việt Nam thống nhất, sau 30 năm chiến tranh, không những không học được tấm gương hòa giải dân tộc của Hồ Chí Minh mà trái lại còn làm sâu sắc thêm vết thương dân tộc khi tập trung vào việc ‘hàn gắn’ cho hàng trăm người. của hàng ngàn quân nhân và quan chức của Việt Nam Cộng hòa trong nhiều năm,” ông Cù viết trong bản kiến nghị được ông phổ biến rộng rãi trên mạng.
ĐCSVN dùng văn bản này buộc tội Cù tội tổ chức và lưu hành chống nhà nước tuyên truyền, lãnh đạo đến việc bị bắt và bị bỏ tù bảy năm sau đó vài tháng.
“Theo như tôi biết, không còn quân nhân nào ở miền Nam Việt Nam bị cầm tù nữa,” ông Cù nói trong một email.
Người chết và kẻ bại trận
Bất chấp thất bại năm 1974, những người lính trở về vẫn được chào đón như những anh hùng ở miền Nam Việt Nam, trước khi Sài Gòn thất thủ. Một con phố ở Sài Gòn được đặt theo tên Tư lệnh Nguỵ Văn Thà, người đã hy sinh khi chiến đấu ở Hoàng Sa.
Sau khi Cộng sản Bắc Việt tràn vào miền Nam Việt Nam năm 1975, con đường mang tên người anh hùng đó không còn nữa.
Trong cuốn sách xuất bản năm 2022, “Không gì là không thể: Sự hòa giải của Mỹ với Việt Nam”, cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius đã chia sẻ câu chuyện cá nhân của ông khi đến thăm nghĩa trang Biên Hòa bị bỏ hoang và được kiểm soát chặt chẽ gần Sài Gòn, nơi chôn cất các binh sĩ duy nhất còn lại của chế độ miền Nam Việt Nam trước đây. Ông cũng nêu chi tiết những nỗ lực ngoại giao mà ông đã thực hiện để tiếp xúc với các quan chức Việt Nam, xin phép thực hiện các hoạt động đơn giản như đào mương và chặt rễ cây trong nghĩa trang. Osius coi nghĩa trang là “điểm xoay” cho sự hòa giải giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam.
Theo Phó Giáo sư Ngô Thị Thanh Tâm của Viện Nghiên cứu Chiến tranh, Holocaust và Diệt chủng NIOD có trụ sở tại Amsterdam, các liệt sĩ của miền Nam Việt Nam Cộng hòa được gọi là “người chết”, xác của họ được phân loại là “chết” kẻ thù.” Nơi chôn cất của họ thường được coi là “vùng chết”, thậm chí còn bị người sống xa lánh vì mạng sống của kẻ thù được coi là “không thể cứu vãn”.
Ngược lại với tử sĩ, 1,2 triệu chiến sĩ của Quân giải phóng miền Bắc đã hy sinh trong chiến đấu xây dựng và bảo vệ ĐCSVN là được tưởng niệm là liệt sĩ (liệt sĩ), cái chết của họ thể hiện sự hy sinh thiêng liêng và vị tha. Trong công thức chính thức, danh sĩ xứng đáng được ghi nhớ mãi mãi và hài cốt của họ cần được chăm sóc chu đáo.
“Từ ‘tử sĩ’ từ đó được dùng để chỉ những người lính hy sinh trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng cái chết của họ không được cơ quan quản lý nhà nước công nhận là đã góp phần vào lợi ích quốc gia, thậm chí có khi [được] coi là đi ngược lại lợi ích quốc gia. . Đây là lý do tại sao thuật ngữ này được sử dụng để chỉ QLVNCH đã thất thủ,” Ngô nói qua email.
Kể từ năm 2014, các cơ quan truyền thông nhà nước đã liệt kê tên của những người lính trong trận Hoàng Sa là tử tử, thay vì danh sách. Mẹ của họ không thể xứng đáng với danh hiệu “bà mẹ anh hùng”, và con cái của họ không được hưởng sự ưu đãi dành cho những liệt sĩ gần gũi và thân yêu nhất được nhà nước công nhận. Những người bị thương trong cuộc xung đột đẫm máu năm 1974 không được công nhận là thương binh.
Về phía Trung Quốc, Nghĩa trang Liệt sĩ Hải quân Tây Sa được xây dựng năm 1975 tại Tam Á, đảo Hải Nam. Nghĩa trang được Chính quyền nhân dân thành phố Tam Á chỉ định là đơn vị bảo vệ di tích văn hóa cấp thành phố vào năm 1990 và được cải tạo vào năm 2016.
Lễ Tưởng Niệm do CPV Kiểm Soát
Ở Việt Nam, ĐCSVN quyết định ai là anh hùng, ai là thành viên của “thế lực thù địch”, cũng như sự kiện nào đáng để tưởng niệm. Sự sai lệch khỏi quan điểm chính thức dẫn đến nhiều hình thức trừng phạt khác nhau, bao gồm cả phạt tù. Điều 18 Luật An ninh mạng 2018 nghiêm cấm bóp méo sử sách đã được ĐCSVN phê duyệt và phủ nhận thành tựu cách mạng ngay cả trong không gian ảo.
Đối với ĐCSVN, nước láng giềng phía bắc vừa là hình mẫu vừa là mối đe dọa, chẳng hạn như bất kỳ lễ kỷ niệm nào về cuộc xung đột năm 1974 ở Biển Đông đều có thể khiến đất nước gặp nguy hiểm. Do trật tự từ trên xuống, lễ kỷ niệm năm 2014 tại Đà Nẵng nhân kỷ niệm 40 năm trận đánh đã bị hủy vào phút cuối vì những lý do vẫn chưa rõ ràng.
Những người biểu tình năm 2014 khăng khăng đòi tưởng nhớ các liệt sĩ Việt Nam đã bị cảnh sát giải tán.
Tuy nhiên, các sự kiện tưởng niệm tự tổ chức vẫn được diễn ra. Cựu đại tá trở thành người tị nạn Vũ Văn Lộc, hiện sống ở California, cho biết “cộng đồng hải ngoại vẫn tổ chức các sự kiện để tưởng nhớ trận chiến đẫm máu”.
Theo nhà nhân chủng học Edyta Roszko, ở Việt Nam ngay cả những sự kiện tưởng nhớ địa phương cũng không hề miễn phí. Roszko viết trong cuốn sách năm 2020 của mình “Những người đánh cá, Tu sĩ và Cán bộ: Nhà nước đi lại, tôn giáo và biển Đông ở miền Trung Việt Nam,” dựa trên nghiên cứu thực địa của bà ở quần đảo Lý Sơn gần quần đảo Hoàng Sa năm 2007-2008.
Năm 2014, nhà báo nổi tiếng Huy Đức và các cộng sự đã tổ chức dự án gây quỹ mang tên “Cầu Hoàng Sa” để hỗ trợ gia đình các liệt sĩ năm 1974. Một chiến dịch cũng được phát động để xây nhà cho góa phụ của các chiến binh miền Nam Việt Nam thiệt mạng trong trận chiến Hoàng Sa.
Vào tháng 1 năm 2014, truyền thông nhà nước Việt Nam lần đầu tiên đánh dấu sự kiện này. Việc công chúng đề cập đến cuộc chiến bị lãng quên từ lâu đã khiến người hàng xóm khổng lồ và đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam tức giận. Vào tháng 5 năm 2014, Trung Quốc đặt giàn khoan dầu ở quần đảo Hoàng Sa, gây ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc chưa từng có trên khắp Việt Nam.
Sự nhạy cảm ngoài bờ biển
Bất chấp tất cả những câu chuyện thú vị được truyền thông nhà nước đăng tải trước, trong và sau chuyến đi của Tập Cận Bình tới Việt Nam vào tháng 12 năm 2023, tranh chấp Biển Đông vẫn là điểm gắn bó giữa hai nước cộng sản và các đối tác hợp tác toàn diện.
Các nhóm người Việt ở nước ngoài và những người bất đồng chính kiến tưởng niệm Trận chiến quần đảo Hoàng Sa đã coi sự im lặng của Đảng Cộng sản Việt Nam trước các cuộc xung đột vũ trang với Trung Quốc là bằng chứng cho thấy họ phục tùng Bắc Kinh.
Nhưng nếu ĐCSVN có lý do gì để chỉ trích “chế độ bù nhìn” không bảo vệ được quần đảo Hoàng Sa thì Hà Nội cũng không khá hơn là mấy.
Lúc đầu, vào năm 1976, ĐCSVN đã cố gắng thuyết phục Bắc Kinh công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa để đổi lấy việc Hà Nội công nhận yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Chỉ sau khi nỗ lực đó thất bại, chính phủ Việt Nam, hiện do ĐCSVN kiểm soát, mới khẳng định yêu sách của mình đối với cả hai quần đảo.
Năm 1988, ĐCSVN đã phải chịu thất bại ở Biển Đông. Quân đội Nhân dân Việt Nam thậm chí không thể bắn trả khi quân Trung Quốc đánh bại họ, lần này là ở quần đảo Trường Sa. Hơn 60 binh sĩ Việt Nam thiệt mạng và 3 tàu hải quân bị đánh chìm trong trận chiến diễn ra gần Đá Gạc Ma.
Tại các cuộc đàm phán tiếp theo, Trung Quốc cáo buộc Việt Nam không chỉ đã xâm chiếm trái phép các đảo để bắt đầu, mà còn là kẻ vô ơn đối với viện trợ thời chiến của Trung Quốc và không đáng tin cậy do Trung Quốc không giữ lời.
Giáo dục bắt buộc về biển đảo ở tất cả các cấp học, kể cả cấp mẫu giáo, vốn đã phổ biến trong thập kỷ qua, tập trung vào việc dạy cho học sinh những gì Đảng Cộng sản muốn các em biết. Nội dung chương trình bị bỏ qua là toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng và sử dụng liên tục kể từ trận chiến năm 1974.
Tuy nhiên, Hà Nội vẫn tiếp tục nhấn mạnh yêu sách của mình, 50 năm sau – và một chính phủ mới – sau đó. Nghị định năm 2020 quy định việc xuất bản bất kỳ tài liệu in hoặc trực tuyến nào có bản đồ Việt Nam mà không bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ bị phạt nặng. Hơn nữa, bất kỳ thực thể nào vi phạm quy định này sẽ bị hạ nhục công khai trên các phương tiện truyền thông nhà nước.
ĐCSVN cũng khuyến khích ngư dân Việt Nam hoạt động trong khu vực tranh chấp dù không thể bảo vệ họ. Cảnh sát biển Trung Quốc đã đánh chìm nhiều tàu Việt Nam và bắt giữ ngư dân ở vùng biển tranh chấp. Bất chấp việc Hà Nội công khai lên án các tàu Trung Quốc xâm phạm vùng lãnh hải mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền và gây nguy hiểm đến tính mạng và tài sản của ngư dân Việt Nam, trên thực tế chưa có nhiều việc được thực hiệnthực tế để bảo vệ họ.
André Menras là một nhà làm phim độc lập 80 tuổi, từng là giáo viên ở miền Nam Việt Nam trước khi Sài Gòn thất thủ. Do hoạt động phản chiến và ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, ông đã bị chính quyền miền Nam Việt Nam trục xuất trước Hiệp định Hòa bình Paris.
Năm 2011, cùng năm được chính thức nhập quốc tịch Việt Nam, Menras được phép sản xuất bộ phim “Hoàng Sa Việt Nam: La Meurtrissure” (“Hoàng Sa Việt Nam: Mất mát đau đớn”) làm sản phẩm báo chí tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ phim nêu bật nhiều thách thức mà ngư dân Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa phải đối mặt do tàu quân sự Trung Quốc.
Tuy nhiên, vào tháng 11 năm 2011, bộ phim bị cấm chiếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù trước đó nó đã tuân thủ luật truyền thông Việt Nam. Theo Menras, bộ phim của ông kể về những ngư dân Việt Nam chịu đựng lâu dài đã bị chỉ trích là chưa nêu bật được tinh thần đảng và chưa khen ngợi đủ sự đóng góp của ĐCSVN.
Ngoài ra, việc chiếu phim của anh cũng gặp phải thách thức ở Pháp. Địa điểm chiếu phim đã bị chính quyền thành phố Montpellier rút lại vào phút cuối vào năm 2012. Để giải thích, ông được lãnh đạo thành phố cho biết rằng “bộ phim đề cập đến bạo lực và xung đột giữa hai nền văn hóa”.
Menras cho biết qua email: “Bộ phim của tôi không nhằm mục đích có sự đồng thuận vì bản thân thực tế không có sự đồng thuận. “Có những bộ phim tài liệu chân thực, không có bất kỳ sự dàn dựng nào và chúng mô tả sự bất công, áp bức và nỗi đau mà những người bình thường phải trải qua. Họ cũng vạch trần sự hèn nhát của những người không bảo vệ họ. Vì vậy, bộ phim có thể vừa gây tổn thương vừa khiêu khích. Điều này đúng vì cả lý do chính trị và thương mại, vì chúng có thể khiến những người có quan hệ thương mại với Bắc Kinh khó chịu, lo sợ bị trả thù”.
Nhưng sự kiểm duyệt ở Việt Nam, Pháp và các nơi khác trên thế giới sẽ không ngăn cản ông theo đuổi và phơi bày những sự thật phũ phàng.
Menras nói: “Tôi không sợ sự thật ở tuổi 20 và tôi không hiểu tại sao tôi lại sợ chúng ở tuổi 80”.
TÁC GIẢ KHÁCH
Christelle Nguyễn
Christelle Nguyễn là nhà nghiên cứu phát triển ở Đông Nam Á. Mối quan tâm của cô bao gồm chính trị Đông Á và ngoại giao công nghệ
Vietnam’s Paradox: Commemorating the Battle of the Paracels
The clash is a milestone for Hanoi’s South China Sea claims – but marking its 50th anniversary requires discussing the government of South Vietnam.
By Christelle Nguyen January 19, 2024
A Vietnamese protester holds a poster with an image of the late captain Nguy Van Tha, who was killed in the battle of the Paracel Islands, during a march at the King Ly Thai To garden to mark the 40th anniversary of the deadly naval battle between China and South Vietnam, in Hanoi, Vietnam, Jan. 19, 2014. The poster reads, in part, “Forever grateful to the hero Nguy Van Tha and his fellows.”
Tang Guoqiang, known in Vietnamese as Đường Quốc Cường, is among the most renowned mainland Chinese actors in Vietnam. Tang is particularly known for playing prominent historical figures in period dramas, which were staples on Vietnamese TV in the late 1990s and early 2000s, mostly for his role as military advisor Zhu Geliang of the Chinese classic novel “Romance of the Three Kingdoms,” also a symbol of ancient wisdom in popular Vietnamese culture.
Little do Vietnamese viewers know that his debut acting role was in a movie in 1976. “Storm Over The South China Sea” (南海风云), produced by the only military film production studio in China, depicted the 1974 Battle of the Paracel Islands between mainland China and South Vietnam.
Tang starred as an optimistic and hardworking fisherman in the resource-rich Paracels, known in Chinese as “Xisha” and in Vietnamese as “Hoàng Sa.” Tang’s character sees his livelihood and family miserably impacted by the repeated harassment of the South Vietnamese army in the South China Sea. Determined for revenge, he becomes a leader in the Chinese navy. The resolute and resilient fishermen, tempered by the spirit of the Cultural Revolution and inspired by Mao Zedong’s leadership, later contributes to the Chinese victory over the “imperialist” troops sent by the corrupt and cowardly South Vietnamese president Nguyễn Văn Thiệu.
The movie’s script is in line with the official Chinese version on the conflict, which occurred on January 19-20, 1974, though skirmishes took place a few days earlier, to determine control over the then-uninhabited archipelago. In Chinese, the brief battle is known as the “Self-Defense War of Xisha” (西沙自卫反击战), as opposed to Vietnamese name, the Naval Battle of Hoàng Sa (Hải chiến Hoàng Sa).
For years, Vietnam has remained silent about the war and has even suppressed large-scale
efforts to commemorate the lost troops, who fought on behalf of South Vietnam. Now, the Communist Party of Vietnam (CPV) has no choice but to commemorate the long-forgotten Paracel Maritime Battle in 1974, albeit cautiously and selectively.
On one hand, Hanoi needs historical evidence of China’s encroachment to assert its territorial claim in the increasingly tense South China Sea today. A unified Vietnam led by the CPV inherited the territorial claims of South Vietnam (also known as the Republic of Vietnam) over the Paracel and Spratly archipelagos. On the other hand, it faces a dilemma recognizing the South Vietnamese government, which was its enemy during and even beyond the Vietnam War.
History of Battles, Battle of Histories
According to Chen Meifang’s 2009 book, “Defending Xisha: PLA’s Self-Defense Counterattack Operations in Xisha Islands,” the octogenarian Mao made his final war decision with a stroke of his pen and two characters, writing “同意” (agree) on Zhou Enlai’s report accusing South Vietnam of “hegemony and expansion” in Chinese territorial waters. Mao put Ye Jianying and Deng Xiaoping, following his rehabilitation during the Cultural Revolution, in charge.
In the ensuing battle, China swiftly defeated the South Vietnamese army, which by then had been largely abandoned by its previous allies. Over 100 South Vietnamese soldiers were killed or wounded, while 48 soldiers from the Republic of Vietnam and one American liaison officer were captured, compared to 18 Chinese soldiers killed and 67 others wounded. China took pride in winning its first maritime battle.
Chinese nationals have occupied the islands ever since. The largest, Woody Island, now has a permanent population of 1,000 people. It now hosts the capital for Sansha City, the administrative unit under which China claims control of all the maritime features in the South China Sea.
Historian George J. Veith, author of the 2021 book “Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams,” said that while the Saigon government was eager to maintain control over the area, the islands were difficult to defend, despite South Vietnam’s years-long attempts to claim sovereignty over the Paracels. At the time of the conflict, South Vietnam had installed a small garrison on one island and maintained naval patrols in the area.
“The Vietnamese Navy ships were old WWII boats given to them by the U.S., the island was hard to resupply, and fighter coverage from the Danang airfields was near the limits of the fuel range of the F-5s. So while Saigon wanted to control the islands and attempted to do so, it was difficult for them,” said Veith via email.
“The Chinese, on the other hand, could mass ships close to the islands. After various provocations by the Chinese, the short naval battle resulted in a defeat for South Vietnam.”
The soon-to-collapse South Vietnam was left to its own devices. In 1972, U.S. President Richard Nixon had traveled to Beijing and started the process of normalizing relations with the People’s Republic of China (PRC). A similar move was made by Japan, though Tokyo continued to support Saigon until its doomsday in 1975. France recognized the PRC and pushed the U.S. to withdraw its troops from Vietnam.
After the signing of the Paris Peace Accords in 1973, numerous Western countries began engaging with the government of North Vietnam. Taiwan, an ally of the South, did not specify its stance on the Paracel Islands, though various mainland Chinese sources said that Chiang Kai-shek’s government tacitly collaborated with the PRC. At the time, Taipei clung to the wild dream of retaking the mainland, and a PLA victory thus would have been seen as beneficial for eventual Republic of China control over the Paracels.
President Thiệu’s repeated requests for U.S. military funding were in vain. South Vietnamese troops, meanwhile, were both economically and mentally distressed. Vũ Văn Lộc, a former colonel in the Southern government in charge of logistics for taking control of the war after the U.S. withdrawal, said that the Army of the Republic of Vietnam (ARVN) was not well prepared for the battle at the time.
Dr. Sean Fear from Leeds University agreed, saying via an email: “I am skeptical that the morale of ARVN soldiers engaged in this episode would have been high, mostly based on my impressions of events elsewhere around the same time.”
In the last-ditch effort, South Vietnam protested to the United Nations, but China, having veto power on the U.N. Security Council – where Beijing had replaced Taiwan since 1971 – blocked any efforts to bring it up. According to Associate Professor Nguyễn Thị Hạnh at the Diplomatic Academy of Vietnam, in her 2018 book “Les Conflits Frontaliers Sino-Vietnamiens,” the U.N. refused to intervene in the conflict between China and the Republic of Vietnam regarding the sovereignty dispute over the Paracel Islands in January 1974.
North Vietnam did not join the effort, which came during a period of tension with China. CPV Chief Lê Duẩn’s initiative to discuss the Paracel and Spratly issues with then-Chinese Deputy Prime Minister Deng Xiaoping upon his visit to Beijing in September 1975, after the fall of Saigon, was dismissed. Deng said that the stance of each country “had already been clear.”
In 1977, the Vietnamese government issued a “Statement on the Territorial Sea, the Contiguous Zone, the Exclusive Economic Zone, and the Continental Shelf,” in which it asserted that the Spratly and Paracel Islands were an inseparable part of Vietnamese territory.
Heroes or Enemies?
The defeat in the Battle of the Paracel Islands contradicts the official narrative of Vietnam emerging victorious in different battles, mostly against China. It was Vietnam that suffered the loss – but not unified Vietnam as it exists today.
Hanoi-centric national textbooks hide from Vietnamese youths the fact that, until the fall of Saigon, the government of North Vietnam was only recognized by a few other nations, mostly from the Communist bloc. North Vietnam was not an official member of the U.N. By contrast, the southern regime was recognized by the U.N. and almost 90 countries.
This complicates official remembrance, as it was South Vietnam that spearheaded the efforts to maintain sovereignty over the Paracel Islands. That involved cooperation with numerous countries. Thiệu asked France to provide full documentation of territorial sovereignty disputes in the South China Sea.
In October 1973, just a few months prior to the Paracel battle, the National Liberation Front of the South, known in Western media as the “Viet Cong,” announced its intention to liberate areas “illegally occupied by the enemy.”
The enemy here refers to the southern government led by Thiệu. In response, Thiệu stated, “It is we who must save ourselves” and ordered his troops to fight tooth and nail. He even went to Danang to oversee his forces responsible for the Paracels’ defense, but the effort was in vain.
The CPV’s stance changed once it was leading a unified Vietnamese government. Now the CPV itself had to address China’s growing aggression in the South China Sea and provide historical evidence of Vietnam’s territorial claims. In these instances, the former southern regime was referred to as the Republic of Vietnam (RVN) instead of “the puppet regime.”
For instance, at the Hoàng Sa Memorial in Danang city, built in 2016, the South Vietnamese government is referred to as the RVN, yet in other historical museums of the same city, it is still referred to as the puppet regime.
Yet the troops that fought on South Vietnam’s behalf, including at the Battle of the Paracels, did not receive any thanks from the CPV. Quite the contrary.
After the fall of Saigon in April 1975, Southern regime civilian and military officials were sent to reeducation centers modeled upon those of China. They were also denied certain vocational and educational opportunities in the new socialist society. Historian Vũ Minh Hoàng described this as “unnecessary and wasteful” in his book chapter “Recycling Violence: The Theory and Practice of Reeducation Camps in Postwar Vietnam.”
Dr. Cù Huy Hà Vũ served in the Vietnamese Ministry of Foreign Affairs for 30 years and then became a dissident, now living in the United States. His father was the famous poet and Minister Cù Huy Cận, who, along with Ho Chi Minh, signed Vietnam’s Declaration of Independence on September 2, 1945.
Dr. Cù conducted extensive research, including interviews with the family members of several incarcerated military officers from the former South Vietnamese regime, which were subsequently documented and shared through international media channels. In August 2010, he submitted a recommendation to the Vietnamese National Assembly, advocating for the amnesty of military and civilian officers who had served under the South Vietnamese regime (1954-1975).
“Ironically, the leadership of the now unified Vietnam, after 30 years of war, not only failed to learn from Hồ Chí Minh’s example of national reconciliation but, on the contrary, deepened the wounds of the nation by focusing on ‘rehabilitation’ for hundreds of thousands of military personnel and officials of the Republic of Vietnam for many years,” wrote Cù in the recommendation, which he disseminated widely online.
The CPV used this document to charge Cù with creating and circulating anti-state propaganda, leading to his arrest and subsequent imprisonment for seven years a few months later.
“As far as I know, there are no more imprisoned military personnel from the South of Vietnam,” said Cù in an email.
The Dead and Defeated
Despite the 1974 defeat, returning soldiers were still welcomed as heroes in South Vietnam, prior to the fall of Saigon. A street in Saigon was named after Commander Nguỵ Văn Thà, who died in action in the Paracels.
After the North Vietnamese Communists overran South Vietnam in 1975, the street named after that hero no longer existed.
In his 2022 book, “Nothing is Impossible: America’s Reconciliation With Vietnam,” former U.S. Ambassador to Vietnam Ted Osius shared his personal account of visiting the abandoned and strictly controlled Biên Hoà cemetery near Saigon, which stands as the sole remaining burial site for soldiers of the former South Vietnam regime. He also detailed the diplomatic efforts he made to engage with Vietnamese officials, requesting permission for simple activities, such as digging ditches and cutting tree roots, within the cemetery. Osius viewed the cemetery as a “pivot point” for reconciliation between the north and south of Vietnam.
According to Associate Professor Ngô Thị Thanh Tâm of the Amsterdam-based NIOD Institute for War, Holocaust, and Genocide Studies, the fallen soldiers of the Republic of South Vietnam are referred to as “tử sĩ,” whose dead bodies are categorized as “dead enemies.” Their burial grounds are often considered “dead zones,” which are even shunned by the living, since the enemies’ lives are deemed “ungrievable.”
In contrast to tử sĩ, the 1.2 million soldiers of the Northern Liberation Army who died fighting for the establishment and preservation of the CPV are memorialized as martyrs (liệt sĩ), whose death exemplifies sacred and selfless sacrifice. In the official formulation, liệt sĩ deserve to be eternally remembered, and their remains are to be taken good care of.
“The term ‘tử sĩ’ since then has been used for soldiers who died in war circumstances, but their death is not recognized by the state authority as contributing to the national interest or sometimes [is] even [seen as] against the national interests. This is the reason why the term is used for fallen ARVN,” said Ngô via email.
Since 2014, state media outlets have listed the names of those soldiers in the Paracels battle as tử sĩ, instead of liệt sĩ. Their mothers cannot earn the title of “heroic mothers,” and their children are not eligible to benefit from the preferential treatment reserved for the nearest and dearest of the state-recognized martyrs. Those injured during the 1974 bloody clash are not recognized as war invalids.
On China’s side, the Xisha Naval Battle Martyrs Cemetery was built in 1975 in Sanya, on Hainan Island. The cemetery was designated as a municipal-level cultural relic protection unit by the Sanya Municipal People’s Government in 1990 and renovated in 2016.
CPV-Controlled Commemoration
In Vietnam, the CPV decides who is a hero and who is part of “hostile forces,” as well as which events are worthy of commemoration. Deviation from official views lead to different types of punishment, including imprisonment. Article 18 of the 2018 Cybersecurity Law forbids distortion of the CPV-approved historiography and denial of revolutionary achievements even in the virtual sphere.
For the CPV, the neighbor to the north is both a model and menace, such that any commemoration of the 1974 conflict in the South China Sea might put the country at risk. Due to a top-down order, the commemoration in 2014 in Đà Nẵng on the occasion of the 40th anniversary of the battle was cancelled at the last minute for reasons that remain unclear.
Protesters in 2014 who insisted on commemorating the death of fallen Vietnamese soldiers were dispersed by the police.
Yet self-organized commemoration events have still been taking place. Former colonel- turned-refugee Vũ Văn Lộc, now living in California, said that “diasporic communities still organize the events to commemorate the bloody battle.”
According to anthropologist Edyta Roszko, within Vietnam even local remembrance events are far from free. “Although the anniversary celebration of the Paracel and Spratly soldiers was included in commemorative projects, the state preferred to maintain a low profile for these ceremonies, as the whole issue of contested archipelagos was highly politicized,” wrote Roszko in her 2020 book “Fishers, Monks and Cadres: Navigating State, Religion, and the South China Sea in Central Vietnam,” based on her field research in the Lý Sơn Islands near the Paracels in 2007-2008.
In 2014, well-known journalist Huy Đức and his colleagues organized a fund-raising project, titled “Hoàng Sa bridge,” to support families of the fallen 1974 soldiers. A campaign was also launched to build houses for the widows of South Vietnamese fighters killed in the Paracels battle.
In January 2014, Vietnam’s state media for the first time marked the event. The public mention of the long-forgotten war drew the ire of Vietnam’s giant neighbor and largest trading partner. In May 2014, China placed an oil rig in the Paracel Islands, triggering unprecedented anti-China protests across Vietnam.
Sensitivity Beyond the Seashore
Despite all the feel-good stories featured in state media before, during, and after Xi Jinping’s trip to Vietnam in December 2023, the South China Sea disputes remain a sticking point between the two communist countries and cooperative comprehensive partners.
Overseas Vietnamese groups and dissidents that have commemorated the Battle of the Paracel Islands has viewed the CPV’s silence over armed conflicts with China as evidence of its subservience to Beijing.
But if the CPV had any reason to criticize the “puppet regime” for failing to protect the Paracel Islands, Hanoi did not do much better.
At first, in 1976, the CPV attempted to persuade Beijing to recognize Vietnam’s sovereignty over the Spratly Islands in exchange for Hanoi’s recognition of China’s claim over the Paracel Islands. Only after that effort failed did Vietnam’s government, now under CPV control, assert its claim over both archipelagos.
In 1988, the CPV suffered its own rout in the South China Sea. The People’s Army of Vietnam could not even return fire when the Chinese troops defeated them, this time in the Spratly Islands. Over 60 Vietnamese soldiers were killed and three naval vessels were sunk in the battle, which took place near Johnson South Reef.
At the ensuing negotiations, China accused Vietnam not only of having illegally invaded the islands to begin with, but also of being ungrateful for China’s war-time aid and unreliable due to the latter reneging on their words.
Compulsory education about the sea and islands (giáo dục biển đảo) at all levels of education, including nursery schools, which has been proliferating over the past decade, focuses on teaching students what the CPV wants them to know. Omitted from the curriculum is the fact that the entire Paracel Island group has been under continuous occupation and utilization by China since the battle of 1974.
Still, Hanoi continues to press its claim, 50 years – and one new government – later. A decree in 2020 stipulated that publishing any print or online materials that feature Vietnamese maps without including the Paracel and Spratly islands would be subject to heavy fines. Furthermore, any entities violating this regulation would be publicly shamed on state media.
The CPV also encourages Vietnamese fishermen to operate in the disputed area, even though it cannot defend them. China’s Coast Guard has sunk many Vietnamese ships and arrested fishermen in the contested waters. Despite Hanoi’s public condemnation of Chinese vessels that encroached upon Vietnam’s claimed territorial waters and endangered the lives and properties of Vietnamese fishermen, little has been done in reality to protect them.
André Menras is an 80-year-old independent filmmaker who worked as a teacher in southern Vietnam before the fall of Saigon.
Due to his anti-war activities and support for the National Liberation Front, he was expelled by the South Vietnamese government before the Paris Peace Accords.
In 2011, the same year when he was officially granted Vietnamese citizenship, Menras obtained permission to produce the film “Hoang Sa Vietnam: La Meurtrissure” (“Hoang Sa Vietnam: Painful Loss”) as a journalistic product in Ho Chi Minh City. The film highlights multiple challenges faced by Vietnamese fishermen in the Paracel Islands due to Chinese military vessels.
However, in November 2011, the film was banned from screening in Ho Chi Minh City, despite its prior compliance with Vietnamese media law. According to Menras, his film, featuring long-suffering Vietnamese fishermen, was criticized for not sufficiently highlighting the party spirit and for not complimenting the CPV’s contribution enough.
In addition, screening of his film also faced challenges in France. The venue of its screening was withdrawn at the last minute by the municipality of Montpellier in 2012. By way of explanation, he was told by the city leader that “the film addresses violence and conflicts between two cultures.”
“My film is not meant to be consensual because reality itself is not consensual,” said Menras via an email. “There are authentic documentaries, devoid of any staging, and they depict injustice, oppression, and pain as experienced by ordinary people. They also expose the cowardice of those who fail to protect them. Therefore, the film can be both hurtful and provocative. This is true for both political and commercial reasons, as they might make those involved in commercial relations with Beijing uncomfortable, fearing potential reprisals.”
But censorship in Vietnam, France, and elsewhere in the world will not stop him from pursuing and exposing the inconvenient truths.
“I did not fear the truths at the age of 20, and I don’t see why I would fear them at 80,” said Menras.
AUTHORS
GUEST AUTHOR
Christelle Nguyen
Christelle Nguyen is a development researcher based in Southeast Asia. Her interests include East Asian politics and tech diplomacy