Chúng ta phải làm gì? (nhân tưởng niệm ngày 30 tháng Tư, 1975) – Nguyễn Huy Hùng
Khi biết rằng 30 tháng 4 năm 1975 là trang lịch sử đen tối nhất của dân tộc Việt Nam
Nguyễn-Huy Hùng, ảnh chụp năm 1969.
Khoá 1 (Khoá Bảo Ðại) Trường Võ bị Quốc Gia Việt Nam 1949
Trong suốt 30 năm qua, mỗi lần mốc thời gian 30 tháng 4 Dương Lịch đến, là một lần nhân dân Thế giới yêu chuộng Tự do Dân chủ Nhân quyền ngạc nhiên, đặt câu hỏi không biết tại sao cùng là con cháu dòng giống Tiên Rồng Việt Nam đang sống định cư tỵ nạn trên toàn Thế giới và trên đất nước Việt Nam, lại bộc lộ hai thái cực VUI BUỒN đối nghịch hẳn nhau ?
Nhưng kể từ ngày 27 tháng 12 năm 2001, sau khi đọc các bản tin bằng Anh ngữ của Thông tấn xã Trung Cộng tại Bắc Kinh và của hãng tin Nhật Bản từ Nam Ninh, đưa lên mạng lưới Internet toàn cầu loan báo sự kiện 2 phái đoàn ngoại giao đại diện cho 2 Bạo quyền Việt Cộng và Trung Cộng, sát cánh bên nhau hân hoan thực hiện Lễ đặt cột mốc đầu tiên tại Móng Cái, để chính thức định lại ranh giới giữa 2 nước Việt Nam và Trung Hoa. Rồi những ngày tiếp theo, các Cộng đồng người Việt định cư tỵ nạn Cộng sản trên toàn Thế giới tổ chức liên tiếp những cuộc biểu tình, chống đối và lên án Đảng và Bạo quyền Cộng sản Việt Nam DÂNG ĐẤT HIẾN BIỂN của Tổ quốc Việt Nam cho quan thầy Trung Cộng. Đồng thời, một số nhân sĩ dũng cảm đang sống ở trong nước, dám dấn thân đấu tranh đòi Dân chủ Nhân quyền cho Dân tộc Việt Nam, trả lời phỏng vấn do các đài phát thanh lớn BBC của Anh, RFI của Pháp, và Á CHÂU TỰ DO của Hoa Kỳ (chương trình tiếng Việt) thực hiện tìm hiểu về vấn đề biên giới trên đất liền và trong Vịnh Bắc phần giữa Việt Nam và Trung Hoa. Và gần hơn nữa, trong năm 2004 Quốc Hội bù nhìn của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam đã theo lệnh của Ban Bí thư Trung ương Đảng, hội họp gọi là theo nghi thức do Hiến pháp quy định, để chính thức phê chuẩn các các Hiệp ước nói trên, thì mọi người mới vỡ lẽ và hiểu rõ lý do vì sao?
AI VUI HỚN HỞ KIÊU NGẠO ĐÓN MỪNG NGÀY 30 THÁNG 4 HÀNG NĂM?
Chỉ có bè lũ khoảng 2 triệu đảng viên Cộng sản Việt Nam buôn dân bán nước, và thiểu số tay sai theo đóm ăn tàn, cùng những người không thuộc dòng giống Việt Nam nhẹ dạ cả tin, bị bộ máy tuyên truyền lừa bịp xảo trá của Cộng sản Việt Nam tác động, không nhìn thấy sự thực tàn bạo bán nước hại dân của nhóm Cộng sản Việt Nam suốt từ khi Thế giới Đại chiến Hai chấm dứt cho đến nay, mới vui mừng đón ngày 30 tháng 4 Dương lịch hàng năm như ngày kỷ niệm công lao của Cộng sản Việt Nam đem lại thống nhất, độc lập, tự do cho dân tộc và đất nước Việt Nam mà thôi.
AI BUỒN HẬN XÓT XA CHO DÂN TỘC VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM ?
Đó là quảng đại quần chúng Việt Nam đang sống ở trong nước.
Đó là các Chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa và Chiến sĩ thuộc Thế giới Tự do tiếp tay hỗ trợ Việt Nam Cộng hòa, đã từng xả thân đứng nơi tuyến đầu chiến đấu chống Cộng sản Quốc tế, cho Thế giới Tư bản không bị làn Sóng Đỏ do bọn Cộng sản quốc tế Liên Xô Nga (nay đã tan rã) điều khiển bành trướng bao vây nhằm tiến tới việc xââm lăng nhuộm đỏ thống trị toàn Thế giới.
Đó là những người yêu chuộng Tự do Dân chủ Nhân quyền trên Thế giới, đã có kinh nghiệm sống với Cộng sản, biết rõ manh tâm xảo quyệt của Cộng sản Việt Nam cùng một duộc với Cộng sản quốc tế.
Và đó là những đảng viên kỳ cựu theo Hồ Chí Minh phục vụ cho Đảng Cộng sản Việt Nam và Quốc tế từ hơn 70 năm qua, nay đã thức tỉnh nhìn thấy rõ mặt thật gian manh xảo quyệt độc tài tàn bạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tất cả những người này buồn hận xót xa, vì mốc thời gian 30 tháng 4 năm 1975 là ngày bất hạnh đen tối nhất cho toàn dân tộc Việt Nam. Suốt từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mâu, mọi người bị đồng loạt đắm chìm dưới sự cai trị chuyên chính, độc đảng tàn bạo, độc tài vô nhân đạo, của bọn Cộng sản Việt Nam vong nô hiếu sát, chủ trương Tam Vô (vô Gia đình, vô Tổ quốc, vô Tôn giáo).
Cả Thế giới lẫn toàn dân Việt Nam cứ tưởng rằng, ngày 30 tháng 4 năm 1975 chấm dứt cuộc chiến Ý thức hệ bằng máu lửa thì dân tộc Việt Nam sẽ được sống hoà hợp yên ổn hạnh phúc, đất nước được tái thiết hưng thịnh, đem lại Tự do Dân chủ Nhân quyền ấm no hạnh phúc bình đẳng cho mọi người. Nhưng kết quả hiển nhiên trông thấy trên đất nước Việt Nam sau 30 năm qua, đã làm cho mọi người thất vọng. Đảng Cộng sản Việt Nam “một mình một chợ múa gậy vườn hoang” dùng bạo lực (quân đội và công an) để đàn áp cai trị dân, đất nước Việt Nam thống nhất vẫn đói nghèo lạc hậu, nhân dân vẫn lam lũ khổ cực, thường xuyên trông đợi sự trợ giúp của đồng bào lưu vong tỵ nạn trên toàn Thế giới xót thương gửi tiền và vật phẩm về đùm bọc. Riêng chỉ có các Đảng viên Cộng sản Việt Nam các cấp, từ Trung ương xuống tận hạ tầng cơ sở địa phương, và thân quyến của chúng là giầu có trở thành giai cấp Tư Bản Đỏ, sống xa hoa đàng điếm hơn cả các Công Hầu Khanh Tướng thời Phong kiến, Thực dân đô hộ trước kia.
Ngay sau khi chiếm được toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam, Cộng sản Việt Nam đã theo lệnh quan thầy Liên Xô và Trung Cộng, thi hành sách lược tiếp tục bần cùng hoá nhân dân, bằng nhiều hình thức khác nhau:
1.- Đổi tiền, một đồng giấy lộn in hình Hồ Chí Minh không được nước nào trên Thế giới công nhận, lấy 500 đồng Việt Nam Cộng hoà được Ngân hàng Thế giới công nhận vì có vàng bảo chứng.
2.- Tước đoạt tài sản của quảng đại quần chúng, bằng biện pháp quốc hữu hoá các công ty, xí nghiệp tư nhân, các trường học Tư thục, các cơ sở riêng của các Tôn giáo, và chiến dịch đánh Tư sản mại bản.
3.- Buộc dân chúng, đặc biệt là vợ con Quân Dân chính thuộc chế độ Việt Nam Cộng hoà tại miền Nam Việt Nam, phải rời thành thị đi vào rừng sâu và các vùng đầm ngập xình lầy, khai phá thành lập các vùng kinh tế mới theo Chính sách giai cấp đấu tranh, tiêu diệt giai cấp Tư sản kẻ thù của giai cấp Vô sản.
4.- Bắt tất cả những người đã từng công khai chiến đấu chống Cộng sản bằng súng đạn hoặc bằng bút mực, giáo chức, tu sĩ nam nữ có tư tưởng lập trường không chấp nhận ý thức hệ Cộng sản, và tất cả các doanh gia bị xếp vào loại Tư sản mại bản, đem giam cầm đầy đọa trong các trại tập trung để cải tạo tư tưởng bằng lao động khổ sai, cho chết lần mòn nơi rừng thiêng nước độc vì bệnh hoạn đói khát, ác độc hơn cả thời Thực dân Pháp đô hộ trước năm 1945.
Vì thế sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến chống Cộng sản của Dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục ngay tại đất nước Việt Nam và trên toàn Thế giới, nhưng dưới hình thức ôn hoà không dùng đến súng đạn. Đến nay đã được 30 năm rồi mà kết quả sau cùng vẫn chưa đạt được, vì còn một vài nghi vấn do Cộng sản Việt Nam tung ra nhằm bóp méo sự thật lịch sử reo hoang mang trong quảng đại quần chúng, chưa được giải toả nên đã khiến một số người ngây thơ khờ khạo muốn hoà hợp hoà giải sống chung với Cộng sản Việt Nam hoặc tiếp tay giúp cho chúng tồn tại. Những nghi vấn đó là :
1.- Có phải Cộng sản Việt Nam thực hiện cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, để đuổi Pháp và Nhật giành lại Độc lập cho Dân tộc Việt Nam sau 100 năm bị Pháp đô hộ hay không?
2.- Theo lời tuyên truyền của Cộng sản Việt Nam, những Chính quyền Quốc gia Nhân bản Việt Nam chống Cộng sản đều là bù nhìn, tay sai của ngoại bang, đem chiến tranh vào tàn phá quê hương Việt Nam, có đúng vậy không?
3.- Hồ Chí Minh và các đảng viên Cộng sản làm Cách mạng để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, đem lại công bằng xã hội và hạnh phúc cho Nhân dân, còn phe Quốc gia chống Cộng sản là phường vong nô bán nước buôn dân, chuyên quyền bóc lột sức lao động của dân, để sống vinh thân phì gia, có đúng vậy không?
hững ai đã sống tại Việt Nam, có dấn thân trong công cuộc đấu tranh giành Độc lập Tự do Dân chủ Nhân quyền cho dân tộc Việt Nam, hoặc quan tâm theo dõi thời sự hàng ngày trong những năm từ thập niên 1930 cho đến nay 2005, đều biết được đây là những nghi vấn do Việt Cộng cố tình nêu ra để dựa vào đó tuyên truyền lừa bịp nhằm khoả lấp tội lỗi của chúng.
Còn những người Việt Nam, dù đã trưởng thành trên đất nước Việt Nam hay tại các nước ngoài Việt Nam trong cùng thời gian đó, nhưng không quan tâm tới chính trị, chỉ lo buôn bán làm giầu, hoặc lo học hành để kiếm bằng cấp tiến thân trong giới thượng lưu tại nước ngoài thì không nhận ra được, nên mới bị mê hoặc sinh ra nghi ngờ lưỡng lự, không tích cực đứng cùng quảng đại quần chúng Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công cuộc tranh đấu loại trừ Cộng sản Việt Nam, đem lại Tự do Dân chủ Nhân quyền thật sự cho dân tộc Việt Nam mà thôi.
Về phần sách, báo, truyện huyền thoại bằng Việt ngữ và Ngoại ngữ ca ngợi hỗ trợ cho các nghi vấn trên có lợi cho Cộng sản Việt Nam, đều do chính cơ quan tuyên truyền của Cộng sản soạn ra phổ biến nhằm bóp méo sự thật của lịch sử thì có quá nhiều. Hoặc do những người có thiện cảm với Cộng sản vì bị mua chuộc viết ra, khiến cho một số trong các thế hệ trẻ Việt Nam và Thế giới được sanh ra và lớn lên sau 30 tháng 4 năm 1975, không biết rõ nên cũng đang bị lầm lẫn muốn sống chung hoà hợp với Cộng sản Việt Nam.
Riêng về phía những người Quốc gia Nhân bản chống Cộng sản, lại ít ai quan tâm soạn và phổ biến những sách báo tài liệu trình bầy sự thật của lịch sử, để lột trần manh tâm gian xảo bóp méo lịch sử của Cộng sản Việt Nam, vì tốn thì giờ và tiền bạc mà không đem lại lợi nhuận cho cá nhân là bao nhiêu. Ngoài ra còn bị bọn Cộng sản Việt Nam và tay sai tìm đến tận nhà hoặc nơi làm việc hăm dọa gây nguy hiểm cho an ninh cá nhân và gia đình, hoặc dùng bọn bồi bút tay sai xử dụng các phương tiện truyền thông đặt điều vu cáo bôi nhọ, nên e ngại không muốn làm. Đó là điều đáng buồn, nhưng lại phản ảnh tinh thần sống Tự do Dân chủ của con người không Cộng sản.
Cũng vì thế nên cuộc chiến ôn hoà không dùng súng đạn, đấu tranh loại trừ Cộng sản tại Việt Nam dai giẳng suốt 30 năm qua chưa dứt điểm được. Trong khi các dân tộc Nga và các nước Đông Âu (từng theo chế độ Cộng sản) đã hoàn tất việc loại bỏ chế độ Cộng sản chuyên chính độc tài tàn bạo trên đất nước của họ, và đã đem lại Tự do Dân chủ Nhân quyền cho dân tộc của họ từ những năm đầu thập niên 1990, đến nay là năm 2005 tính ra cũng được mười mấy năm rồi.
Hy vọng một số sự kiện lịch sử đã thật sự xẩy ra trong quá khứ, suốt từ những năm thuộc thập niên 1940 cho đến nay 2005 trình bầy sau đây, sẽ giúp giải toả thỏa đáng 3 điều nghi vấn thắc mắc nêu ra trên đây, và góp được phần nào hữu ích cho công cuộc tiếp tay cùng toàn dân Việt Nam tiếp tục cuộc đấu tranh, loại trừ Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi đất nước Việt Nam thân yêu của nòi giống Tiên Rồng Việt Nam chúng ta.
Người viết chỉ nhớ những sự kiện, còn ngày tháng năm chính xác của các sự kiện được tham khảo trong cuốn VIỆT NAM NIÊN BIỂU NHÂN VẬT CHÍ liệt kê gần 900 tác nhân lịch sử cận đại từ 1848 đến 1975, trong 2 cuốn VIỆT NAM NIÊN BIỂU tập A, tập B, ghi các sự việc đã xẩy ra trên toàn Thế giới suốt từ năm 1939 đến 1954, của CHÁNH ĐẠO do nhà xuất bản VĂN HOÁ phát hành vào các năm 1996 và 1997 tại Hoa Kỳ, và tin tức loan truyền trên báo chí và các mạng lưới Internet của các hãng thông tấn trên toàn Thế giới hiện nay.
1.- Có phải đích thực Cộng sản Việt Nam thực hiện cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, để đuổi Pháp và Nhật giành lại Độc lập cho dân tộc Việt Nam sau 100 năm bị Pháp đô hộ không ?
SỰ THẬT HIỂN NHIÊN CHO THẤY KHÔNG PHẢI NHƯ VẬY.
Đêm 9 tháng 3 năm 1945, quân Phiệt Nhật mở cuộc đánh úp bất ngờ đồng loạt trên toàn cõi Đông Dương, lật đổ chính quyền Bảo hộ Pháp. Hai ngày sau, tức là ngày 11 tháng 3 năm 1945, Tướng Yokoyama theo lệnh Nhật Hoàng vào gặp Vua Bảo Đại, để thảo luận việc tái lập Quốc gia Việt Nam Tự trị, trong Khối Đại Đông Á do Vương quốc Nhật lãnh đạo. Vua Bảo Đại đã công khai tuyên bố độc lập với Pháp, hủy bỏ Hoà Ước 1884, và hợp tác toàn diện với Nhật và Khối Đại Đông Á để tái lập quốc gia Việt Nam Độc lập khỏi tay Đế quốc Thực dân Pháp sau 100 năm bị đô hộ.
Ngày 17 tháng 3 năm 1945, Vua Bảo Đại ban hành Chiếu Chỉ đích thân cầm quyền điều hành nước Việt Nam Độc lập theo tinh thần DÂN VI QÚY. Đến ngày 19 tháng 3 năm 1945, ông Phạm Quỳnh từ chức Thái Tử Thiếu Bảo, Thượng Thư Bộ Lại. Vua Bảo Đại đã tiếp xúc với một số nhân sĩ do ông Phạm Khắc Hoè (Ngự tiền Tổng lý của Vua Bảo Đại) đề nghị. Vua Bảo Đại đã mời ông Ngô Đình Diệm lập Chính phủ nhưng không thành, nên đã ủy thác cho ông Trần Trọng Kim thành lập Chính phủ điều hành Quốc gia Việt Nam Độc lập.
Lá cờ Quốc gia Việt Nam mới ra đời từ lúc đó, toàn nền cờ mầu vàng, ở giữa dọc theo bề dài của cờ có 2 sọc đỏ dài ôm 2 xọc đỏ ngắn biểu trưng quẻ Ly. Đến ngày 5 tháng 6 năm 1948, Quốc gia Việt Nam đổi Quốc kỳ theo biểu trưng quẻ Càn, cũng nền mầu vàng, nhưng với 3 xọc đỏ song hàng dài bằng nhau.
Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Vua Bảo Đại gửi thư cho De Gaulle, yêu cầu trả độc lập cho Việt Nam. Tới ngày 23 tháng 8 năm 1945, Vua Bảo Đại mới dồng ý ký Chiếu thoái vị, và sai Phạm Khắc Hoè đem trao cho Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tại sân vận động Huế. Chiều ngày 25 tháng 8 năm 1945, Phạm Khắc Hoè cho niêm yết Chiếu thoái vị và Tuyên Chiếu với Hoàng tộc của Vua Bảo Đại tại Phú Văn Lâu trước cửa Ngọ Môn Kinh thành Huế.
Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Vua Bảo Đại chính thức làm Lễ thoái vị, trao ấn kiếm, quốc bảo, và quốc quyền cho Trần Huy Liệu Trưởng phái đoàn đại diện Việt Minh, và Liệu đã đưa huy hiệu cờ đỏ sao vàng cho Cựu hoàng Bảo Đại nhận quyền công dân. Phái đoàn của Liệu gồm Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận đều có mặt tại buổi lễ. Sau đó Cựu Hoàng Bảo Đại rời Kinh đô Huế ra thành phố Hà Nội cư trú tại số 51 phố Hàng Cỏ.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp các Đảng phái Quốc gia và Cộng sản của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trình diện Chính phủ Liên hiệp trước dân chúng tại vườn hoa Ba Đình thành phố Hà Nội, và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 5 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 5 về Quốc kỳ, hủy bỏ cờ Quẻ Ly, thay bằng Cờ Đỏ Sao Vàng. Đồng thời Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội Vụ ký Sắc lệnh số 8, giải tán Đại Việt Quốc Gia Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng, và bắt đầu chiến dịch bắt bớ một số lãnh tụ giáo phái và phe Trốt-Kít vì âm mưu đảo chánh, và tiêu diệt các phần tử quốc gia yêu nước không chịu theo Cộng sản, với những tội danh như: đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập của Việt Nam, đã âm mưu những việc thiệt hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam, làm Việt gian.
Ngày 7 tháng 9 năm 1945, Cựu Hoàng Bảo Đại họp báo tại Hà Nội, tuyên bố không nhận lời giúp đỡ của Nhật để chống Việt Minh.
Ngày 11 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh ký Sắc Lệnh số 23, bổ nhiệm Nguyễn Phước Vĩnh Thụy (tức là Cựu Hoàng Bảo Đại) làm Cố vấn cho Chủ Tịch Chính phủ Liên hiệp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Qua các sự kiện lịch sử đã thực sự xảy ra được trình bày trên đây, chúng ta nhận thấy rằng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam không đuổi Nhật Pháp ra khỏi nước để giành độc lập cho dân tộc Việt Nam như chúng thường rêu rao về cuộc Cách Mạng tháng 8 năm 1945, mà chúng đã man trá cướp chính quyền từ tay chính phủ Quốc gia Việt Nam do Vua Bảo Đại làm Quốc trưởng.
Nếu Hồ Chí Minh và bọn Việt Minh không xảo quyệt, lừa bịp quần chúng thực hiện được các sự việc kể trên đây, thì Quân Liên Hiệp Quốc vào Việt Nam giải giới quân Phiệt Nhật, đã không để quân Pháp bám theo quân Anh Cát Lợi vào Saigon mở đường tái chiếm Đông Dương, và đã giúp Vua Bảo Đại và Dân tộc Việt Nam phục hưng đất nước Độc lập Thống nhất Dân chủ Tự do theo một thể chế Chính trị không Cộng sản, thì chắc chắn Dân tộc Việt Nam không bị tốn hao bao nhiêu xương máu suốt mấy chục năm chiến tranh, do Khối Cộng sản Quốc tế thúc đẩy tiếp trợ bọn Việt Cộng và Hồ Chí Minh thực hiện để tàn phá quê hương Việt Nam.
Cho đến bây giờ, sau 30 năm đất nước không còn chiến tranh, Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng chuyên chính vô sản độc quyền cai trị đất nước, dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục bị chìm đắm trong nghèo đói bệnh hoạn chậm phát triển nhất Thế giới, các quyền căn bản Tự do, Dân chủ, Nhân quyền đều không được tôn trọng.
2.- Theo lời tuyên truyền của Cộng sản Việt Nam, những Chính quyền Quốc gia Nhân bản Việt Nam chống Cộng sản đều là bù nhìn tay sai của ngoại bang, đem chiến tranh vào tàn phá quê hương Việt Nam, có đúng vậy không?
HOÀN TOÀN SAI, CHÍNH HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MỚI LÀ BỌN TAY SAI CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN GÂY RA CHIẾN TRANH, TÀN PHÁ QUÊ HƯƠNG GIẾT HẠI ĐỒNG BÀO VIỆT NAM SUỐT MẤY CHỤC NĂM TRỜI LIÊN TIẾP. CÁC ĐIỀU TRÌNH BẦY DƯỚI ĐÂY SẼ MINH CHỨNG RÕ RÀNG ĐIỀU ĐÓ.
Sau khi thi hành các thủ đoạn xảo quyệt chiếm đoạt được chính quyền từ tay Vua Bảo Đại xong, Hồ Chí Minh Chủ tịch Chính phủ Liên Hiệp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và bọn Việt Minh củng cố nội bộ. Đến đầu năm 1946, Hồ Chí Minh và bọn Việt Minh phát động chiến dịch tiêu diệt tất cả các Phong trào và Đảng phái Chính trị Việt Nam yêu nước không chấp nhận Chủ nghiã Cộng sản, đang cộng tác với Hồ Chí Minh trong Chính phủ Liên Hiệp, để nắm độc quyền cai trị đất nước dân tộc theo đường lối Vô sản Chuyên chính, do Đệ Tam Quốc tế Cộng sản Liên Xô lãnh đạo.
Ngày 28 tháng 1 năm 1946, quân Pháp theo chân quân Anh Cát Lợi, giải giới quân Phiệt Nhật tại miền Nam Vĩ tuyến 16, chiếm Saigon rồi tái lập Nam Kỳ Tự Trị vào ngày 4 tháng 2 năm 1946.
Lợi dụng dịp này, Hồ Chí Minh với tư cách Chủ Tịch Chính phủ, phát động TUẦN LỄ VÀNG để kêu gọi đồng bào cả nước đóng góp vàng ủng hộ nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống Pháp, nhưng lại ngầm liên lạc bắt tay chia chác quyền hành với Pháp. Kết quả là vào lúc 4 giờ chiều ngày 6 tháng 3 năm 1946 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh cùng với Vũ Hồng Khanh đã ký Hiệp Ước Sơ Bộ với Saintenay (đại diện Pháp), đồng ý cho Pháp tự do đổ quân lên một số tỉnh trọng yếu tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam không tốn một viên đạn, mà còn được Bộ đội Việt Minh đón rước bảo vệ an ninh lộ trình trong khi Pháp di chuyển quân. Các tỉnh ấy là : Đà Nẵng, Huế, Nam Định, Hải Phòng, Thủ đô Hà Nội, HònGay, Cẩm Phả, Port Vallut và đảo Cô Tô trong Vịnh Hạ Long, Tiên Yên, Đình Lập, Lộc Bình, Lạng Sơn, và Đồng Đăng. Điểm chính yếu của Hoà Ước là đồng ý cho Pháp đổ quân vào miền Trung và miền Bắc Việt Nam để bảo vệ an toàn sinh mạng của khoảng 20,000 kiều dân Pháp đang sống tại miền Bắc Việt Nam, cũng như tạm ngưng chiến tại miền Nam để 2 bên thương thảo về tương lai của nước Việt Nam.
(Saintenay là một chuyên viên tình báo của Pháp có nhiệm vụ hoạt động bên các nhóm tình báo Đồng minh chống Nhật tại vùng Châu Á, Thái Bình Dương. Ngày 22 tháng 8 năm 1945, Saintenay và Thiếu tá OSS Patti tình báo của quân Đồng minh chống Nhật, đã từ Côn Minh bên Trung Hoa về tới phi trường Gia Lâm (Hà Nội), được Việt Minh đón và đưa vào cư ngụ trong Dinh Toàn quyền của Pháp cũ. Theo Saintenay tiết lộ thì, hồi Hồ Chí Minh còn đang ở Tuyên Quang, ngày 25 tháng 7 năm 1945 đã nhờ Thomas và toán AGAS Mỹ chuyển cho Saintenay một bức thư. Trong thư Hồ đồng ý chấp nhận sự trở lại Việt Nam của Pháp với điều kiện được độc lập trong vòng từ 5 đến 10 năm.)
Ngày 24 tháng 3 năm 1946, Hồ Chí Minh được máy bay của Pháp đưa ra Vịnh Hạ Long (Bắc phần Việt Nam) gặp Cao Ủy Pháp D’Argenlieu lần đầu tiên. Sau đó vào ngày 31 tháng 5 năm 1946, Hồ Chí Minh được Pháp đưa qua chính quốc để dự Hội nghị Fontainebleau giải quyết vấn đề Việt Nam. Lúc đó phe Cộng sản Pháp thân Cộng sản Nga đang có ưu thế trong chính quyền tại Pháp, Hồ Chí Minh xin mật đàm với Marius Moutet (Bộ trưởng Hải ngoại của Chính phủ Pháp) để vận động trước, nhưng Hội nghị vẫn đổ vỡ. Vì chính phủ Pháp chỉ bằng lòng thương thuyết với một Chính phủ Liên hiệp gồm đủ thành phần đảng phái, tôn giáo Việt Nam. Lúc Hồ Chí Minh đến dự Hội nghị, thì Chính phủ Liên hiệp ấy không còn nữa. Hồ Chí Minh và Việt Minh đã tiêu diệt các phe không theo Cộng sản để trở thành độc đảng cộng sản cầm quyền, nên không được coi là đại diện cho toàn dân tộc Việt Nam. Pháp cũng không chấp nhận cho Hồ Chí Minh làm trưởng đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Fontainebleau, mà ngầm áp lực và thu xếp để cho Phạm văn Đồng làm Trưởng đoàn.
Vào nửa đêm Thứ Bẩy 14 tháng 9 năm 1946 tại Paris, thông cảm nỗi khó khăn của Hồ Chí Minh sau nhiều tháng thương thảo mà trở về nước tay không thì bẽ mặt và sẽ bị quốc dân phê phán bất lợi, nên Chính phủ Pháp đã duyệt thuận trước rồi cho Marius Moutet và Hồ Chí Minh ký một Thoả Ước [Modus vivendi] Pháp-Việt, xác nhận lại những gì đã ký kết ngày 6 tháng 3 năm 1946 tại Hà Nội về lãnh thổ Việt Nam kể từ Vĩ tuyến 16 trở ra mà thôi, còn việc trả lại miền Nam để nước Việt Nam thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam, sẽ tùy thuộc vào sự trưng cầu dân ý của nhân dân miền Nam sau này. Theo báo L’Humanité tường thuật rằng Hồ Chí Minh đã cùng Sainteny rời Paris vào ngày 16-9-1946 bằng xe xuống Toulon, để lên tầu Dumont d’Urville về nước vào ngày 19-9-1946. Theo tiết lộ của Sainteny, Hồ Chí Minh bị Việt kiều ở Montélimar và Marseille cáo buộc là Việt gian.
Trong khi đó tại Việt Nam, Pháp tiếp tục tăng cường củng cố an ninh các khu vực đóng quân và cư trú của kiều dân Pháp trong các thành phố mà họ đã được Việt Minh đón rước vào. Cả hai bên, mèo Pháp và chuột Hồ Chí Minh-Việt Minh (con rối do Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản Nga giật dây) tiếp tục gầm gừ thương thảo chia chác quyền cai trị dân Việt Nam không đi đến đâu, nên ngày 19 tháng 12 năm 1946 chiến tranh Pháp-Việt Minh bùng nổ. Quân Việt Minh thua bỏ chạy vào bưng. Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân “tiêu thổ kháng chiến” để thực hiện bước thứ nhất của Sách lược Cộng sản Quốc tế bần cùng hoá nhân dân, tiến tới Chế độ chuyên chính Vô sản hiện tại trên đất nước Việt Nam.
Chiến tranh Pháp Việt Minh dần dần lan tràn từ các thành thị về miền quê. Quân Pháp lấn chiếm thêm nhiều tỉnh khác như Hà Đông, Sơn Tây, Phủ Lý, Hưng Yên, Thái Bình, Quảng Yên, Cẩm Phả, Thất Khê, Cao Bằng, Bắc Kạn… Dân chúng Việt Nam sống khổ cực lo sợ dưới 2 gọng kìm Mật vụ Công an của cả 2 phe Pháp và Việt Minh. Máu lửa chết chóc tù đầy tang thương, triền miên đổ lên đầu lên cổ thường dân vô tội, khắp mọi nơi trên toàn đất nước Việt Nam.
Các nhân sĩ yêu nước Việt Nam không Cộng sản, trên cả 3 miền đất nước thoát khỏi vụ Việt Minh tàn sát hồi đầu năm 1946, ngồi lại với nhau thoả thuận thành lập Mặt Trận Thống Nhất Toàn Quốc, rồi cử 24 đại diện sang Hồng Kông gặp Cựu Hoàng Bảo Đại vào ngày 9 tháng 9 năm 1947, để yêu cầu Ngài đứng ra thương thuyết với Pháp chấm dứt chiến tranh. Cựu Hoàng Bảo Đại tuyên bố sẽ đứng ra hoà giải các phe phái sau khi đã thương lượng với Pháp.
Ngày 10 tháng 9 năm 1947, Emile Bollaert được chính phủ Pháp chỉ định làm Cao Ủy Đông Dương, đến Hà Đông đọc diễn văn đưa ra nguyên tắc Pháp đồng ý để Việt Nam Độc lập trong hỗ tương (L’indépendence dans l’interdépendance).
Ngày 14 tháng 9 năm 1947, tại Saigon Mặt trận thống nhất toàn quốc tổ chức biểu tình để lên tiếng mời Cựu Hoàng Bảo Đại về nước, đại diện nhân dân Việt Nam thương thuyết với Pháp.
Ngày 18 tháng 9 năm 1947, từ Hồng Kông Cựu Hoàng Bảo Đại ra tuyên cáo chấp nhận sự ủy thác của quốc dân, sẵn sàng thương thuyết với Pháp, và bắt đầu dấn thân tiếp xúc với Bollaert tại Đông Dương, rồi sang Paris thương thuyết với chính quyền Pháp trong nhiều tháng liên tiếp.
Đến ngày 5 tháng 6 năm 1948, Cựu Hoàng Bảo Đại với danh vị Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam đã tới chiến hạm Duguay-Trouin đậu tại Vịnh Hạ Long, để chứng kiến Cao Ủy Pháp tại Đông Dương Emile Bollaert và Thiếu Tướng Nguyễn văn Xuân Thủ tướng Chính phủ Trung Ương Lâm thời Việt Nam thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam, cùng các Đại diện Chính phủ tại 3 miền là các ông Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí (miền Bắc), Phan văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Đinh Xuân Quảng (miền Trung), Trần văn Hữu, Lê văn Hoạch (miền Nam), gặp nhau để ký Hiệp Ước Hạ Long và ra bản tuyên ngôn gồm 3 điểm. Điều 1 xác định : Nước Pháp long trọng nhìn nhận sự độc lập của nước Việt Nam. Từ rày về sau, việc tự do thực hiện nền thống nhất quốc gia tùy nơi nước Việt Nam. Về phần mình, nước Việt Nam tuyên bố chịu gia nhập vào Liên Hiệp Pháp với danh nghĩa một quốc gia đồng hội với nước Pháp.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Quốc trưởng Bảo Đại ký Hiệp Ước Élysée với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol, rồi về nước vào ngày 25 tháng 4 năm 1949.
Từ Đà Lạt Cựu Hoàng Bảo Đại, Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam Thống nhất, đã gửi thông điệp mời Hồ Chí Minh và phe Việt Minh bắt tay cộng tác với các đoàn thể chính trị Quốc gia, cùng chung lưng đấu cật xây dựng đất nước. Nhưng vì Hồng quân của Mao Trạch Đông đang thắng thế trên đất Trung Hoa, nên Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Nga lãnh đạo chỉ thị Hồ Chí Minh phải cương quyết khước từ không hợp tác với Bảo Đại và các Đảng phái Chính trị Quốc gia không Cộng sản, và tiếp tục thúc đẩy chiến tranh du kích trên đất nước Việt Nam.
Ngày 1 tháng 10 năm 1949, sau khi chiếm được toàn lãnh thổ Trung Hoa Lục địa, Mao Trạch Đông trở thành Chủ Tịch Trung Hoa Cộng sản, liền đem Cố vấn quân sự chính trị sang vùng biên giới Việt Nam Trung Cộng, thành lập các khu huấn luyện và trang bị vũ khí, thành lập các Đại đơn vị cho Việt Minh của Hồ Chí Minh, để chuyển sang thế Vận động chiến, tiếp tục gây tang thương cho đất nước dân tộc Việt Nam ngày một khốc liệt hơn. (Các khu này nay đã trở thành đất của Trung Cộng).
Cho đến năm 1954, Hồ Chí Minh và Việt Minh nhờ sự hỗ trợ tích cực trực tiếp của Liên Xô và Trung Cộng, đã làm cho quân Pháp gặp nhiều khốn đốn, phải bỏ vùng biên giới Bắc Việt giáp ranh với Trung Cộng rút về phòng thủ vùng đồng bằng sông Hồng. Pháp không được Mỹ yểm trợ, phải đơn thương độc mã chống với Việt Minh quân tiền phong của Quốc tế Cộng sản, do Trung Cộng cung cấp Cố vấn, tổ chức huấn luyện, và trang bị đầy đủ các vũ khí đủ loại từ Liên Xô tiếp sang, nên Pháp đã thất bại lớn tại vùng Sơn La Lai Châu. Thua trận chiến Điện Biên Phủ, nên Pháp đã phải chấp nhận giải pháp đình chiến, cắt đôi nước Việt Nam thành 2 phần Bắc, Nam, biệt lập hẳn với nhau.
Ngày 21 tháng 7 năm 1954 vào lúc 01:00 giờ sáng tại Genève, theo lệnh của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng, Việt Minh đã ký với Pháp Hiệp Ước đình chiến chia đất nước Việt Nam ra 2 vùng tập trung quân riêng biệt cho Pháp và Việt Minh. Ranh giới phân chia 2 vùng là Vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải ra đến Cửa Tùng) với một khu phi quân sự rộng không quá 5 cây số dài theo 2 bên bờ sông Bến Hải, và Hiệp Ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 14 tháng 8 năm 1954. Quân Việt Minh tập trung hết về phía Bắc Vĩ tuyến 17, Quân Pháp tập trung hết về phía Nam Vĩ tuyến 17. Dân chúng đang sống trên 2 miền Bắc, Nam của Vĩ tuyến 17 được toàn quyền lựa chọn nơi cư trú, và Pháp phải cung cấp phương tiện di chuyển trong vòng 300 ngày. Sau 2 năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử tại cả 2 miền, để người dân Việt Nam tự do lựa chọn chế độ chính trị mong muốn.
Đại diện Chính phủ Quốc gia của Bảo Đại có dự Hội nghị, phản đối không ký vào Hiệp Ước, nhưng vẫn cùng Pháp thi hành Hiệp Ước một cách nghiêm chỉnh. Hơn một triệu dân chúng miền Bắc, không chấp nhận sống dưới sự cai trị của Cộng sản Việt Minh, đã bỏ ruộng vườn nhà cửa mồ mả ông cha di cư vào miền Nam Vĩ tuyến 17. Ngược lại, từ miền Nam chỉ có một số nhỏ Cán binh Cộng sản theo lệnh Đảng đi tập kết ra Bắc, còn dân chúng không một ai muốn đổi vùng cư trú từ Nam ra Bắc theo Cộng sản Bắc Việt. Một số cán binh Cộng sản khác và thân quyến những cán binh đi tập kết, được Đảng Cộng sản Bắc Việt chỉ thị ở lại nằm vùng hoạt động phá hoại gây rối loạn an ninh trật tự tại miền Nam sau này.
Đến năm 1955 dân miền Nam đồng lòng thay đổi chế độ Chính trị, lập nền Đệ Nhất Cộng Hoà theo Tổng Thống chế, giành lại quyền quản trị miền Nam từ tay người Pháp, xây dựng nền kinh tế Tư bản rất phồn vinh. Ông Ngô Đình Diệm được dân chúng bầu làm Tổng thống.
Trong khi đó tại miền Bắc Vĩ tuyến 17, Hồ Chí Minh và Chính quyền Cộng sản phát động chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố điền chủ, thương gia, trí thức không theo Cộng sản, kể cả những đảng viên Cộng sản thiếu kiên định lập trường. Gần nửa triệu người đã chết thê thảm tức tưởi. Nhiều nơi có những nhóm chống đối phản kháng nổi lên, Hồ Chí Minh đã phải sai Võ Nguyên Giáp thay mặt chính quyền xin lỗi Nhân dân. Hồ Chí Minh hứa sửa sai và cất chức Trường Chinh vì thi hành sai đường lối của Đảng. Trong chiến dịch này, Trường Chinh đã được lệnh của Đảng phải đích thân về quê nội đấu tố chính cha ruột của mình. Thật tội nghiệp cho Trường Chinh. Nhưng sau này, khi nhân dân thấy Trường Chinh được Đảng bầu lên làm Tổng Bí Thư, một chức vụ quyền uy lớn nhất Đảng, bao trùm cả Nhà Nước và Quốc hội bù nhìn, thì mọi người mới vỡ lẽ hiểu được rằng việc Hồ Chí Minh cất chức Trường Chinh trong vụ đấu tố trước kia, chỉ là màn kịch lừa bịp gian xảo của Hồ Chí Minh và bè Đảng Việt Cộng để lừa dối xoa dịu nỗi công phẫn của quần chúng mà thôi.
Đồng thời, thay vì xây dựng phát triển kinh tế đem lại ấm no cho dân chúng miền Bắc, Hồ Chí Minh trung thành tuân hành chỉ thị của Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Nga lãnh đạo, đưa Cán bộ Cộng sản Bắc Việt lén lút xâm nhập vào miền Nam Vĩ tuyến 17 để phối hợp với nhóm Cán bộ nằm vùng (không rút ra Bắc tập kết như Hiệp Ước Genève 1954 quy định) để thành lập các toán võ trang khủng bố, phá hoại cuộc sống an bình thịnh trị tại miền Nam Việt Nam.
Rồi khởi từ cuối năm 1959, chúng thành lập Mặt trận giải phóng miền Nam, và bắt đầu phát động các cuộc đánh đồn chiếm ấp, hăm doạ hãm hại dân chúng, phá rối trị an, chuẩn bị kế hoạch quy mô xua quân xâm chiếm miền Nam. Cường độ chiến tranh gia tăng ngày một nghiêm trọng hơn, đến nỗi Chính quyền và nhân dân miền Nam phải kêu gọi nhờ quân Đồng Minh của Thế giới Tự do vào yểm trợ tự vệ. Lợi dụng sự kiện này, Liên Xô và Trung Cộng tăng cường thêm vũ khí đạn dược và cố vấn quân sự, thúc đẩy Việt Minh gây chiến ác liệt hơn, để đi đến việc ký kết Hiệp định đình chiến Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris đã ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973, Quân đồng minh hỗ trợ Việt Nam Công hoà tại miền Nam Vĩ tuyến 17 do Hoa Kỳ lãnh đạo, rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nhưng phe Quốc tế Cộng sản trắng trợn vi phạm, tăng cường yểm trợ vũ khí tối tân mạnh mẽ hơn, và thúc đẩy Cộng sản Bắc Việt lùa quân vượt Vĩ tuyến 17, cũng như từ các căn cứ địa an toàn trên lãnh thổ các nước Cộng sản Lào, Campuchia, ùa vào cưỡng chiếm luôn miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Qua các sự kiện vừa trình bầy, ai cũng thấy chính Cộng sản Việt Nam, tay sai của Liên Xô và Trung Cộng mới là tội đồ gây ra chiến tranh tàn phá quê hương giết hại đồng bào cả 2 miền đất nước Việt Nam, chớ không phải do Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng hòa tại miền Nam Việt Nam làm tay sai cho ngoại bang gây ra.
Nếu Cộng sản Bắc Việt không thi hành lệnh của quan thầy Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Nga lãnh đạo, gây chiến liên tục suốt mấy chục năm trường để chia đôi lãnh thổ thành 2 miền Nam Bắc năm 1954, rồi lại tiếp tục gây rối loạn để cưỡng chiếm cho được miền Nam Việt Nam bằng mọi giá, thì dân tộc Việt Nam cả 2 miền đã không tốn mấy triệu sinh mạng một cách vô ích. Quân Dân Việt Nam Cộng hoà tại miền Nam vĩ tuyến 17, đâu có phải cầu cứu các Đồng minh trong Thế giới Tư bản đem quân vào hỗ trợ tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của Cộng sản miền Bắc. Quê hương Việt Nam cả 3 miền Bắc Trung Nam đâu có bị bom đạn của Liên Xô Nga, Trung Cộng và Hoa Kỳ tàn phá tan hoang.
3.- Hồ Chí Minh và các đảng viên Cộng sản Việt Nam làm Cách Mạng để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, đem lại công bằng xã hội và hạnh phúc cho Nhân dân, còn phe Quốc gia chống Cộng sản là phường vong nô bán nước buôn dân, chuyên quyền bóc lột sức lao động của dân, để sống vinh thân phì gia, có đúng vậy không?
TỪ CUỐI THẬP NIÊN 1980 QUA ĐẦU THẬP NIÊN 1990, CÁI NÔI CỘNG SẢN QUỐC TẾ TẠI LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC CỘNG SẢN ĐÔNG ÂU TAN RÃ, TRUNG CỘNG ĐỔI MỚI MỞ CỬA ĐÓN NHẬN TƯ BẢN VÀO GIÚP CẢI TIẾN NỀN KINH TẾ CHỈ HUY ÈO UỘT CỦA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, CÁC BỨC MÀN SẮT VÀ MÀN TRE CỦA CỘNG SẢN TRÊN TOÀN THẾ GIỚI ĐÃ BỊ HẠ XUỐNG. MỌI NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI TỰ DO TƯ BẢN CÓ CƠ HỘI ĐI THĂM CÁC NƯỚC NGUYÊN THEO CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN KỂ CẢ VIỆT NAM, ĐÃ NHÌN THẤY SỰ THẬT PHŨ PHÀNG VỀ CÁI THIÊN ĐƯỜNG CỘNG SẢN XÂY DỰNG SUỐT BA PHẦN TƯ THẾ KỶ 20, VÀ CÁC TÀI LIỆU VỀ CHIẾN TRANH ĐƯỢC GIẢI MẬT, MỌI NGƯỜI ĐỀU CÓ CƠ HỘI THAM KHẢO, ĐÃ CHỨNG MINH NGƯỢC LẠI TẤT CẢ NHỮNG GÌ CỘNG SẢN VIỆT NAM NÓI.
Sau khi chiếm toàn miền Nam Việt Nam, một số Cán bộ Cộng sản và thân nhân từ miền Bắc vào thăm miền Nam, đặc biệt những chiến binh Cộng sản đi tập kết ra Bắc từ năm 1954 trở về, thấy rõ ràng tận mắt, cuộc sống sung túc văn minh của dân chúng tại miền Nam cao hơn hẳn miền Bắc về mọi mặt : ăn, ở, mặc, các phương tiện công ích xã hội, trường học, chợ, nhà thương, chuyển vận, giải trí… đều có quá đầy đủ. Không thiếu thốn, khổ cực, nghèo đói, vì bị Ngụy quyền cấu kết với Đế quốc xâm lược bóc lột, như đã được nghe Đảng và Nhà Nước tuyên truyền suốt thời gian mấy chục năm sống tại đất Bắc Xã hội Chủ nghiã. Họ bắt đầu hoang mang, không còn tin vào Đảng nữa? (Bản thân Dương Thu Hương, một nữ văn sĩ trung kiên của Đảng CSVN, sau 30 tháng 4 năm 1975 vào Saigon đã nhận xét rằng, cuộc sống sung túc dư thừa của đồng bào Nam bộ, chính là cái thiên đường mà Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhân dân miền Bắc mơ tưởng từ mấy chục năm qua chưa đạt được.)
Bộ Chính trị Trung Ương Đảng phải vội vã thảo ngay mười bài học chính trị để cải tạo tư tưởng mọi người. Theo tài liệu, Đảng dạy rằng nền kinh tế phát triển tại miền Nam Việt Nam chỉ là PHỒN VINH GIẢ TẠO, và Bác Hồ hồi còn sống cũng đã dạy rằng : “Giải phóng xong miền Nam, Bác Cháu ta sẽ xây dựng đất nước giầu mạnh tươi đẹp gấp trăm ngàn lần hơn bây giờ.”
Đến nay 30 năm đã qua, Đảng CSVN chuyên quyền “một mình một chợ, muá gậy vườn hoang”, áp dụng nền kinh tế chỉ huy của Cộng sản vô địch theo khuôn mẫu Liên xô không thành công, rồi lại theo Liên xô đổi mới áp dụng nền kinh tế thị trường của Tư bản. Khi Liên Xô xụp đổ lại quay ra theo Trung Cộng, mở cửa áp dụng nền Kinh tế Thị trường nhưng theo định hướng Xã hội Chủ nghiã để cứu đói giảm nghèo, mà chẳng thấy đời sống người công dân trong Xã hội Chủ nghiã sáng sủa hơn chút nào, nếu không muốn nói là còn thua cả thời Thực dân bảo hộ (theo nhận xét của Trần Độ, một cựu Tướng Quân đội Nhân dân CSVN, với hơn 50 tuổi Đảng).
Kết quả ghi nhận hiện nay thật thảm hại. Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam được cơ quan nghiên cứu về kinh tế của Liên Hiệp Quốc, xếp vào hàng mươi nước nghèo đói nhất trên Thế giới. (Theo bản nghiên cứu của Luật sư trẻ Lê Chí Quang ở trong nước (trước khi bị Cộng sản Việt Nam kết án tù) thì chỉ số thâu nhập bình quân đầu người hàng năm của Việt Nam là 320 Đô la Mỹ, thua xa thời Việt Nam Cộng hoà trước 30-4-1975. Còn đem so sánh với chỉ số thâu nhập bình quân đầu người hàng năm của Hoa Kỳ là 19,856 Đô la, thì chỉ bằng có 1.62,2 phần trăm. Luật sư Quang đã bị Bạo quyền Hà Nội bắt giữ và kết án 4 năm tù khổ sai, cộng thêm 5 năm quản chế tại địa phương sau khi mãn hạn tù giam, đã làm chấn động cả dư luận Thế giới. Rồi đến Bác sĩ Phạm Hồng Sơn và nhiều người khác như nhà báo Nguyễn sĩ Bình, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu, Hoàng Minh Chính, Giáo sư Trần Khuê, cựu Đại tá Quân đội Nhân dân Cộng sản Việt Nam Phạm Quế Dương…, vì lòng yêu nước thương nòi đã dũng cảm viết bài và công bố trên mạng lưới internet lên tiếng xin Đảng và chính quyền Cộng sản Việt Nam đổi mới chính sách cai trị, nới rộng Dân chủ và các quyền Tự do cho dân chúng, xin thành lập ủy ban tiếp tay với chính quyền bài trừ nạn tham nhũng. Nhưng tiếc thay, ý kiến đóng góp của họ đã không được lắng nghe lại còn bị bắt và phạt tù, vì tội lợi dụng tự do dân chủ nói xấu chính quyền, gây chia rẽ dân tộc, âm mưu lật đổ chính quyền, tiết lộ bí mật quốc gia, làm gián điệp…)
Năm 1958, Hồ Chí Minh và Bạo quyền CSVN tại miền Bắc Vĩ tuyến 17, đang được Trung Cộng yểm trợ hết mình về mọi mặt để thành lập “Mặt trận giải phóng miền Nam” phát động cuộc chiến phá rối trị an tại miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1959. Vì thế, khi Trung Cộng ra bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, quyết định Hải phận quanh các đảo thuộc nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa là 12 hải lý. Trong bản đồ phụ đính (không phổ biến) nhưng Hồ Chí Minh và Trung Ương Đảng CSVN biết và thấy có ghi quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Cộng, thế mà vẫn biểu quyết cho Phạm văn Đồng Thủ tướng Chính phủ ký văn thư chính thức vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, gửi cho Thủ tướng Trung Cộng là Chu Ân Lai, để xác nhận tán thành và triệt để tôn trọng bản tuyên bố nêu trên của Trung Cộng.
Đầu năm 1974, khi Kissinger đại diện Hoa Kỳ đến mật đàm với Trung Cộng, Mao Trạch Đông đã đưa cho Kissinger xem bản tuyên bố ngày 4-9-1958 (có bản đồ phụ đính ghi rõ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Cộng). Được Kissinger đại diện Hoa Kỳ công nhận, lập tức vào ngày 11 tháng 1 năm 1974, Trung Cộng đưa Hải quân hùng mạnh đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, đang do Địa phương Quân và Hải Quân Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại miền Nam Vĩ tuyến 17 trấn giữ. Hải lực Hoa Kỳ có mặt trên vùng biển Đông của Việt Nam Cộng hoà lúc đó rất mạnh, nhưng làm ngơ không can thiệp. Bạo quyền Cộng sản Hà Nội ngậm tăm không dám lên tiếng phản đối, như vậy chứng tỏ rằng Việt Cộng đã đồng loã và cầu mong Trung Cộng làm việc này.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Sĩ quan các cấp Tướng, Tá, Úy, cả Nam lẫn Nữ thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hoà bị bắt đưa vào tập trung tại trại Long Giao, Long Khánh, khởi sự đoạn đời tù đầy khổ nhục. Trong một buổi học tập cải tạo tư tưởng, có người đã công khai đặt câu hỏi với Trưởng phái đoàn Huấn luyện Việt Cộng từ Hà Nội vào, về tình trạng quần đảo Hoàng Sa bị Trung Cộng đánh chiếm từ tay Quân lực VNCH hồi đầu năm 1974, nay sẽ được giải quyết ra sao? Sau khi suy nghĩ do dự giây phút, anh ta đã trả lời : “-Đây là chuyện nội bộ anh em trong nhà không có gì khó. Khi nào Ta (Cộng Sản Việt Nam) lên tiếng thì người anh em đồng chí sẽ giải quyết ngay.”
Vào đầu năm 1979, Trung Cộng xua quân đánh chiếm 6 tỉnh biên giới Bắc Việt, gọi là để cho CSVN một bài học, đồng thời rút hết Cố vấn về nước, cắt mọi khoản viện trợ, rút bỏ bang giao, chấm dứt tình anh em khắng khít như răng với môi, vì CSVN đã dám nghe lệnh Liên Xô đưa quân thi hành “nghiã vụ Quốc tế Cộng sản” sang đánh chiếm Campuchia lật đổ Pon Pot đàn em của Trung Cộng.
Rồi ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Cộng lại đem Hải quân đến đánh đuổi quân CSVN đang đóng trên quần đảo Trường Sa (thay thế Quân lực VNCH từ sau 30-4-1975). Quân CSVN thua ôm đầu máu bỏ chạy. Bạo quyền Hà Nội chỉ lên tiếng phản đối lấy lệ, vì sau khi Cộng sản Liên Xô tan rã, chỉ còn đàn anh Trung Cộng ở ngay sát nách để nương tựa nhờ vả, nên không dám làm lớn chuyện. Hơn nữa, vào năm 1958 đã ký Văn kiện chính thức công nhận và hứa tuyệt đối tôn trọng bản tuyên bố của Trung Cộng về lãnh hải, trong đó có ghi rõ ràng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Cộng rồi, thì bây giờ làm sao chối cãi hủy bỏ cho được. Thật là thảm hại, đồng bọn chồn cáo hồ ly tinh xảo quyệt gặp nhau biết ăn nói làm sao. Chỉ có Dân tộc Việt Nam là phải chịu thiệt thòi.
Sau 30-4-1975, không còn chiến tranh trên đất nước Việt Nam, toàn khối Cộng sản Quốc tế ngưng viện trợ cho CSVN, và bắt đầu đòi nợ các khoản đã ứng giúp cho CSVN thúc đẩy cuộc chiến suốt mấy chục năm qua. Không có tiền, CSVN đã phải xuất cảng người sang các nước Cộng sản anh em làm nhân công để trừ nợ dần, cả Thế giới ai cũng biết. Đến nay các nước Cộng sản anh em Liên Xô và Đông Âu đã thay đổi chế độ theo Tư bản Chủ nghiã, số nhân công do Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã đưa đi làm trừ nợ cần phải trả về Việt Nam. Nhưng Nhà Nước CSVN làm ngơ và đặt điều kiện để trì hoãn không nhận, rõ ràng là “đem con đi bỏ chợ” một cách vô nhân đạo. Những người tội nghiệp này, đang phải sống trong hoàn cảnh “vất va vất vưởng giữa xã hội đen” tại Liên Xô và các nước Đông Âu. Chỉ có một thiểu số may mắn được các nước phương Tây chấp nhận cho tỵ nạn, mới có được cuộc sống tạm coi là ổn định. Những người này thấy được mặt thật tàn bạo vô nhân đạo của Đảng và Nhà Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam, nên đã gia nhập các phong trào Quốc gia đấu tranh hỗ trợ đồng bào trong nước vùng lên lật đổ Bạo quyền CSVN.
Riêng đối với Trung Cộng dư thừa nhân công không nhận người làm trừ nợ, nên CSVN đã phải trả nợ bằng nông sản, hải sản, lâm sản, khoáng sản, và các loại thực phẩm tươi như rau, trái cây… Nợ nhiều quá trả mãi không hết, Lãnh tụ Đảng CSVN đã phải lén lút giấu Nhân dân, ký với Trung Cộng các Hiệp Ước ngày 31-12-1999 về biên giới đất liền và ngày 25-12-2000 về lãnh hải trong Vịnh Bắc Việt, để hiến một phần đất và lãnh hải của Tổ quốc Việt Nam cho Trung Cộng nhằm thế nợ, và nhờ che chở cho được yên thân nắm giữ độc quyền cai trị đất nước tiếp tục bóc lột toàn dân củng cố Đảng. Mặc dù toàn dân chống đối, Quốc hội bù nhìn cũng đã theo lệnh Đảng biểu quyết hợp thức hoá các Hiệp ước bán nước nêu trên vào năm 2004.
Vào khoảng cuối năm 2001, các hãng tin thuộc Thế giới tự do loan đi cho biết, Vladimir Putin Tổng thống Liên Bang Nga sang thăm Việt Nam, đã tuyên bố bằng lòng xoá bỏ 8 Tỷ trong số 10 Tỷ tiền nợ cho Việt Cộng vay trong thời gian chiến tranh đến nay chưa trả được. Nhờ thế, sự thật mặt trái nội bộ Thế giới Cộng sản mới được phơi bầy trước ánh sáng. Xưa nay CSVN cố tình giấu giếm tuyên truyền xảo trá, làm ai cũng tưởng các nước anh em Cộng sản Quốc tế hết mình tiếp viện “bất vụ lợi” cho Cộng Sản Việt Nam, gây chiến tranh trường kỳ để cướp cho bằng được độc quyền cai trị đất nước, xây dựng Xã hội Chủ nghiã tiến tới Thế giới Cộng sản Đại đồng. Không ngờ, các nước anh em đồng chí trong Thế giới Cộng sản Đại đồng với nhau, chỉ cho vay để dễ sai khiến và trục lợi mà thôi.
Suốt từ các năm cuối thập niên 1990 Thế kỷ 20, cho đến nay đã vào gần nửa thập niên 2000 thuộc Thế kỷ 21 rồi, mà hậu quả tình trạng kinh tế trên đất nước Việt Nam vẫn èo uột chậm phát triển, khiến cho đa số quảng đại quần chúng bị thất nghiệp nghèo đói khổ cực. Đến nỗi, Bạo quyền Cộng sản Việt Nam phải lập những công ty Quốc doanh xuất khẩu lao động qua Đài Loan, Đại Hàn và nhiều nước khác để giải quyết nạn dư thừa lao động và trục lợi thâu góp Đô la cho Đảng và Nhà nước. Những người dân khốn khổ này bị ngoại bang bóc lột hành hạ than van kêu cứu, toàn Thế giới đều biết, thế mà Bạo quyền Cộng sản Việt Nam không hề quan tâm can thiệp để bảo vệ họ. Thật là vô nhân đạo hết chỗ nói. Từ mấy nghìn năm lập quốc đến nay, chưa có chính quyền nào của Việt Nam đem đồng bào ruột thịt của mình đi làm nô lệ cho nước ngoài để lấy tiền như vậy.
Ngoài ra, Bạo quyền Cộng sản Việt Nam còn công khai cho xuất khẩu phụ nữ và trẻ gái vị thành niên ra nước ngoài làm nô lệ tình dục, dưới hình thức cho phép người nước ngoài vào Việt Nam cưới vợ và mua con nuôi đem về nước của họ.
Để kết luận,
Trắng đen đã rõ ràng, các Chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà tại miền Nam Việt Nam đã vì Chính nghiã, vì sự Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, vì hạnh phúc ấm no của Dân tộc, vì sự phồn vinh và tương lai phát triển của Dân tộc và đất nước Việt Nam, nên đã hy sinh xả thân chiến đấu chống Cộng sản xâm lược.
Còn Hồ Chí Minh và bè Đảng Cộng sản Việt Nam, mới chính là bọn “buôn Dân bán Nước”, làm tay sai cho Đế quốc Cộng sản Thế giới gây ra chiến tranh tàn phá quê hương Việt Nam, giết hại đồng bào Việt Nam vô tội, để giành quyền cai trị theo Chủ nghiã Cộng sản hoang tưởng của cái Thế giới Cộng sản Đại đồng nay đã tan rã, nhưng vẫn còn ngoan cố bám lấy để tiếp tục hại dân hại nước, độc quyền sống vinh thân phì gia, làm giầu trên mồ hôi nước mắt và xương máu của quảng đại quần chúng Dân Tộc Việt Nam.
Tất cả chúng ta, những người thuộc dòng giống Tiên Rồng Việt Nam anh hùng bất khuất, hãy tùy theo khả năng sở trường ngồi lại với nhau, tiếp tục thúc đẩy công tác Thế giới vận, để ủng hộ và yểm trợ mạnh mẽ hữu hiệu hơn nữa cho đồng bào Việt Nam trong nước vùng lên đều khắp mọi nơi, trong mọi lãnh vực, đẩy mạnh cuộc đấu tranh loại bỏ cho bằng được Đảng Cộng sản Việt Nam và bọn tay sai theo đóm ăn tàn ra khỏi đất nước Việt Nam, để hơn Tám chục Triệu đồng bào Việt Nam sớm được no ấm, Tự do, Dân chủ, Công bằng và Nhân quyền được tôn trọng bảo vệ bởi một Chính quyền Dân chủ Pháp trị. Mong lắm thay.
NGUYỄN-HUY HÙNG,
Cựu Đại tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà,
Phụ tá Tổng Cục trưởng Chiến Tranh Chính Trị
kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến,
Cựu Tù nhân Chính trị Việt Nam, 13 năm tù khổ sai
trong các trại tập trung cải tạo của Cộng sản Việt Nam