Vịt, Vịt, Lúa: Nông trại Vermont làm mẫu phương pháp đa dạng để trông lúa bền vững

Share this post on:

(Duck, duck, rice: Vermont farm models diverse method of raising sustainable grains)

Cheryl Perusse Daigle – Bình Yên Đông lược dịch

Mongabay – 22 March 2023

Theo truyền thống được xem là hoa màu của khí hậu ấm áp, một số giống lúa cũng có thể phát triển trong những khu vực ôn đới, kể cả vùng đông bắc của Hoa Kỳ

Một nông trại trồng lúa ở Vermont đã thực hiện thành công phương pháp nông sinh thái (agroecology) “aigamo,” nơi vịt được thả vào ruộng lúa để kiểm soát cỏ dại và côn trùng, cộng với phân bón miễn phí, cho lúa.

Nông sinh thái là một kỹ thuật nông nghiệp khả chấp dựa trên các hệ sinh thái tự nhiên cũng áp dụng truyền thống trồng trọt cỗ điển được phát triển bởi người bản xứ, các cộng đồng truyền thống và địa phương

Nông trại nay đang huấn luyện những nông trại khác để nâng cao việc sản xuất lúa trong vùng và tạo nên một “cộng đồng thực hành,” để các nông dân có thể hỗ trợ và khuyến cáo lẫn nhau về việc trồng lúa, xây ruộng lúa, và nhiều thứ khác.

FERRISBURGH, Vermont – Cái nhà mà nông dân Erik Andus xây với vợ, Erica, nằm cao hơn một chút trên những cánh đồng là đối tượng của những theo đuổi nông nghiệp khác nhau.  Bên ngoài cửa sổ ở nhà bếp của anh, hình dáng của các ruộng lúa nay là một phần của câu chuyện đang tiến triển của một nông dân đang học để sử dụng đất tốt nhất, gầy dựng cuộc sống trong khi giúp cho chức năng cư trú thiên nhiên của đồng bằng thấp có lợi cho vô só đời sống hoang dã.

“Tôi không lớn lên như một nông dân.  Tôi làm việc trên nông trại của cô và chú của tôi như một đứa trẻ và bắt sâu đến mức độ nào đó và biết rằng tôi luôn luôn muốn làm nghề canh tác, một khi tôi tìm được cách để làm,” Andrus nói.  Cơ hội đến trong năm 2005 khi anh và Erica mua cái họ sẽ đến để gọi là Nông trại Boundbrook ở Ferrisburgh, Vermont.  Với ưa thích làm bánh mì và nấu rượu bia, họ trước hết thử trồng lúa mì và lúa mạch, phụ thêm bởi một đàn bò nhỏ.  Andus sớm nhận ra rằng, tuy nhiên, đất nặng rất khó thoát nước sau khi mưa.

“Chúng tôi có bò thịt vào lúc đó, và nước đến đầu gối, trông giống như trâu, và tôi nghĩ, ‘ồ, nó giống như ruộng lúa,’” anh nói, và được nhắc nhỡ dịp viếng thăm đồng lúa trong lúc sống ở Nhật Bản.

In May, when seedlings are about 7 inches tall and have begun to grow three to four full leaves, they are transplanted into the paddies. Farmer Erik Andrus relies on Japanese equipment and methods that he has adapted to match the conditions on his farm. Just prior to transplanting, the paddies are puddled with a rototiller to create a soil substrate amenable to receiving rice transplants, level the surface, and suppress early weed growth. Image courtesy of Boundbrook Farm.

Trong tháng 5, khi mạ cao khoảng 7 inches và bắt đầu có 3 đến 4 lá, chúng được cấy vào ruộng lúa.  Nông dân Erik Andus dựa vào dụng cụ và phương pháp của Nhật mà anh đã thích ứng để phù hợp với điều kiện của nông trại anh.  Ngay trước khi cấy, ruộng lúa được cày với một cái cày tròn để tạo nên một lớp đất có thể nhận mạ, làm bằng mặt đất, và trấn áp sự tăng trưởng sớm của cỏ dại. [Ảnh: Boundbrook Farm]

Các ý tưởng cho kế hoạch mới của Nông trại Boundbrook được củng cố bởi một phúc trình năm 2019 của các nông dân đồng nghiệp ở Vermont là Tokesha và Linda Akaogi về việc trồng lúa trong vùng Đông bắc Hoa Kỳ.  Phúc trình gồm có hướng dẫn làm thế nào để trồng các giống lúa được nội địa hóa trên đất canh tác ướt không thích hợp cho các loại nông nghiệp khác.

“Có một làn sóng quan tâm nhỏ chung quanh vùng bắt đầu khoảng thời gian đó,” Andrus nói.  “Có nhiều người trồng, kể cả tôi, thấy rằng hơi khó một chút để làm lớn ra vì phương pháp Akaogi là cái cho anh biết cách để trồng hoa màu ở vườn, nhưng để trồng ở qui mô mà anh có thể tự túc, những phương pháp đó không còn đủ nữa.  Tôi quyết định rằng cái tôi sẽ cố gắng làm là tìm cách phát triển phương pháp thương mại.”

Andrus bắt đầu trồng trong năm đó, bắt đầu trồng từ hột trên 200 ft2 (gần 19 m2).

“Chúng tôi chỉ đào các ruộng lúa đầu tiên bằng xẻng,” anh nói.  “Chúng tôi chỉ trồng được 20 pounds [9 kg] trong năm đó, nhưng nó vừa đủ để tiếp tục.  Và tôi nghĩ nó thành công để tôi tiếp tục mở rộng.”

Cho vịt vào

Nông trại Boundbrook nằm bên trong cực đoan phía bắc để trồng lúa thành công, nơi Andrus nay trồng các giống lúa Hokkaido xưa từ Nhật Bản là loại chịu lạnh.  Những nguyên tắc của nông sinh thái, được định nghĩa lỏng lẽo bởi Andrus như là hệ thống sản xuất lương thực có nhiều đặc tính của các hệ sinh thái tự nhiên hỗ trợ nhiều chủng loại, cũng nằm trong trí của anh.

Vì thế, đi theo một truyền thống khác của Nhật Bản, họ thực hiện phương pháp aigamo, nơi vịt được thả vào ruộng lúa để làm nhiệm vụ kiểm soát cỏ dại trong lúc chất thải của chúng bón phân cho nước, loại trừ sự cần thiết của thuốc trừ sâu và phân bón.

Boundbrook Farm's agroecology system for growing rice relies on mulard (French for ‘mule-like’), a hybrid, non-fertile duck, to control weed growth and provide fertilizer, eliminating the use of pesticides or other chemicals. The ducks are released into the paddies about seven to ten days after the rice seedlings are transplanted, allowing time for the roots to take hold. Image courtesy of Boundbrook Farm.

Hệ thống nông sinh thái của Nông trại Boundbrook để trồng lúa nhái theo hệ sinh thái tự nhiên, nơi vịt kiểm soát cỏ dại và cung cấp phân bón, loại trừ sự cần thiết của thuốc trừ sâu và các hóa chất khác.  Vịt được thả vào ruộng lúa khoảng 7 đến 10 ngày sau khi mạ được cấy, khi rễ đã ăn vào đất.  [Ảnh: Boundbrook Farm]

Một khi mạ mới cấy ra rễ, họ thả vịt vào, chúng lục lọi giữa các cây lúa, ăn cỏ dại chẳng hạn như duck potato, hay trấn áp việc nẩy mầm và tăng trưởng của các loại cỏ dại khác chẳng hạn như barnyard grass và spikerush có thể cản trở lúa, nhờ chúng khuấy đất chung quanh mầm lúa mới.  Trong thời gian từ đầu đến giữa mùa, chim không đụng đến lúa, vì chúng thấy lá có chất silica cao không ngon.  Vịt được lùa ra khỏi ruộng lúa khi hạt bắt đầu trổ “bông” và bắt đầu oằn xuống đến tầm với của chúng.

 An toàn của vịt là công việc chánh ỡ giữa mùa.  Một hàng rào gia cầm điện được căng chặt chẽ chung quanh các ruộng lúa để ngừa những thú ăn thịt.

“Chúng tôi kiểm chúng vào buổi sáng và tối – nếu có vấn đề của thú ăn thịt, thì thỉnh thoảng chúng tôi phải nhốt chúng vào ban đêm và rồi đi ra lúc 6:00 AM và thả chúng ra lại,” Andrus nói với Mongabay.  “Anh học các dấu hiệu của chúng.  Nếu bị tấn công vào ban đêm, thái độ của cả bầy vào buổi sáng thì khác nếu chúng có 1 đêm im lặng.”

Nông trại Boundbrook đã thử một vài giống vịt được nội địa hóa trong nhiều năm, nhưng cuối cùng chọn giống ‘mulards’ (tiếng Pháp là “mule-like” (giống lừa), một loại vịt trắng lai không có khả năng sinh sản ở Canada.  Kích thước nhỏ hơn và bản chất hoạt động hơn của mulards mái có lợi cho việc trồng lúa, và chúng có thể bán để ăn thịt sau khi được lùa khỏi ruộng lúa.  Viêc bán thịt bổ sung cho lợi tức thu hoạch lúa, chiếm khoảng 10% tổng số thu nhập của nông trại.

Hấp dẫn đối với đời sống hoang dã đất ngập nước

Trong khi những thú ăn thịt ở ruộng lúa kể cả rái cá và chồn, cả hai đều có thể giết nhiều vịt hơn chúng có thể thật sự ăn, Andrus nói diều hâu trên thực tế không phải lo lắng – anh biết anh sẽ mất một vài con vịt mỗi mùa vì bị tấn công từ trên trời.

“Nhưng có [những thú ăn thịt] cái mà anh có thể theo dõi như rùa táp, một khi anh biết cách.  Một con rùa táp sẽ đi qua một hàng rào điện nóng như lửa – chúng là khủng long.  Nhưng anh có thể tìm thấy nơi nó làm thế, và chúng không di chuyển quá nhanh,” anh vừa nói vừa cười.  “Vì thế, không sớm thì muộn, anh có thể bắt nó.”

River otters are among the wildlife species that value the agroecology-based rice paddies at Boundbrook Farm. Image courtesy of John Yunker via Unsplash.

Rái cá thuộc vào những loại đời sống hoang dã đến viếng các ruộng lúa dựa trên nông sinh thái ở Nông trại Boundbrook. [Ảnh: John Yunker]

Môi trường ruộng lúa cũng hấp dẫn đối với đời sống hoang dã tùy thuộc vào đất ngập nước khác, gồm có nhiều loại chuồn chuồn, vài loại cò, ếch và kỳ nhông.  Theo Andrus, nhiều nông dân không nhận thức bạn có thể được nơi cư trú cũng như một số dịch vụ hệ sinh thái khác từ việc sản xuất lúa.  Mỗi tháng 3, gia đình anh có thể thấy hàng ngàn vịt trời trong những ruộng lúa đó, vì thủy cầm di chuyển về phía bắc – những thứ họ chưa từng thấy khi nó là đồng cỏ.

“Chim di cư thích đậu trong đất ngập nước lớn… những thứ nơi nước đủ cạn để ăn nhưng đủ sâu để được an toàn [từ thú ăn thịt].  Chúng không muốn đáp xuống [gần] hồ Champlain – chúng an toàn ở đó, nhưng chúng không thể nghỉ và không thể lục lọi,” Andrus nói.  Vì thế, có những thứ thật sự có định tính đặc biệt về loại đất của ruộng lúa.  Trong tình trạng tự nhiên của khung cảnh, không có nhiều nước rộng lớn có chiều sâu đồng nhất, vì thế nông trại trồng lúa tạo nên đặc tính đó.  Nó giống như nam châm đối với chim, vì nó có mọi thứ chúng cần.”

Tiến đến nông trại

Là một người thích ứng sớm ở New England, Andrus và những người học việc của anh đã làm nhiều nghiên cứu để học những điều kiện trồng tốt nhất, các kỹ thuật kiến tạo đồng ruộng, quản lý nước, chế biến hạt, và tìm thị trường, tất cả đều không có khuyến cáo của các nông dân láng giềng.

Vì thế, trong năm 2015, Andrus trở lại Nhật Bản để đi thăm thêm các nông trại và tham dự hội thảo canh tác vịt-lúa được tổ chức bởi chuyên viên hàng đầu trong kỹ thuật, Takao Furuno, nơi tôi gặp những đồng chí thực hành vẫn còn giúp anh cho đến hôm nay.

“Ở Nhật Bản, một nhóm người giúp về hạ tầng cơ sở ruộng lúa, một số người là chuyên viên trong [đó].  Không ai thành công trong canh tác như một cá nhân ở đó – nó là một tập thể.”  Nếu có nhiều người bắt đầu trồng lúa ở New England và New York, họ có thể xây một hệ thống tương tự với tài nguyên để hỗ trợ hạ tầng cơ sở, anh nói, “cộng thêm với việc chia sẻ ý tưởng và kiến thức.”

Một vài sản phẩm lúa có thể nói là đặc sản của New England, vì thế Andrus nhấn mạnh cần phải cạnh tranh.  Kinh nghiệm của anh cho thấy có nhiều khách hàng, vì thế anh muốn thấy có nhiều nông dân đi vào đấu trường nầy hơn.  Nay, Andrus làm việc với Cornell Cooperartive Extension ở New York để khuyến khích thêm nông dân thử trồng lúa trong các cánh đồng ít được sử dụng vì quá ướt để hỗ trợ các loại nông nghiệp khác.

Ý tưởng là chia sẻ tin tức và giảm lo lắng về viêc trồng lúa.  “Vì thế có nhiều khía cạnh của việc trồng lúa rất đặc thù đối với lúa, nó làm cho những nông dân giàu kinh nghiệm e sợ,” anh nói.

In early August, water is let out of the rice paddies to allow for a shift to firm, dry soil conditions required for successful use of the combine harvester later in the fall (pictured). Harvesting and drying the rice need to take place the same day. Image courtesy of Boundbrook Farm.

Đầu tháng 8, nước được tháo ra khỏi ruộng lúa để cho phép chuyển sang cứng, điều kiện đất khô đòi hỏi dể sử dụng thành công máy thu hoạch hỗn hợp vào mùa thu. [Ảnh: Boundbrook Farm]

Nuôi dưỡng một cộng đồng thực hành

Những cánh đồng của Boundbrook hiện đang được ở không sau trận hạn hán trong năm 2020 ảnh hưởng nghiêm trọng sự thành công của nó.  Trong năm 2021 và 2022, họ mướn các cánh đồng ở gần Little Otter Creek từ một nông dân khác để tạo thành ruộng lúa với hỗ trợ dẫn thủy từ suối, mà không làm cạn kiệt nguồn nước hay thêm tốn kém cho nước cung cấp cho thị trấn.  Andrus dự định nới rộng việc sản xuất một lần nữa trong năm 2024, một lần nữa, bằng cách dùng một số ruộng lúa được phát triển trên đất của anh.

Theo Martha Caswell, đồng giám đốc của Nông sinh thái và Cuộc sống Cộng tác (Agroecology and Livelihoods Collaborative) ở Đại học Vermont, Nông trại Boundbrook chuyển sang dùng đất kế bên với tiềm năng dẫn tưới phản ánh nguyên tắc cốt lõi của nông sinh thái, phù hợp với hoạt động để đặt, thay vì đi vòng.

“Có vốn [cho phép Boundbrook] có thể tiếp cận thêm đất, nhưng cũng có sự hiểu biết hay tính nhạy cảm với cái đất có thể giữ hay chịu được,” Caswell nói.

“Có nhiều cách khác nhau để thực hành nông sinh thái, tùy theo vùng sinh học của anh và vật liệu mà anh có trong tay.  Nó có thể khá khác biệt từ nông trại nầy qua nông trại khác,” Mollie Wills của Rural Vermont, một tổ chức bất vụ lợi chú trọng đến việc tăng cường sức khỏe xã hội, sinh thái và kinh tế của các cộng đồng nông nghiệp.  “Điều đó chắn chắn đúng cho Vermont, chúng ta có nhiều vi khí hậu nhỏ, và một phần của định nghĩa của nông sinh thái là làm việc thừa hưởng với khung cảnh mà anh có, và tài nguyên có sẵn cho anh.”

When everything is working smoothly on harvesting days, the drying, hulling, sifting (and sometimes ‘polishing,’ when producing white rice) processes yield a 50 pound (22.6 kg) bag every couple of minutes – two people can bag 6,000 pounds (over 2,700 kg) of rice in four to five hours. Image courtesy of Boundbrook Farm.

Khi mọi thứ hoạt động trôi chảy trong những ngày thu hoạch, các tiến trình làm khô, xay, sàng (và thỉnh thoảng ‘đánh bóng,’ khi sản xuất gạo trắng) cho 1 bao nặng 50 pounds (22,6 kg) mỗi 2 phút – 2 người có thể vô bao 6.000 pounds (trên 2.700 kg) lúa trong 4 đến 5 tiếng đồng hồ. [Ảnh: Boundbrook Farm]

Với đất cộng thêm, và liên tục điều chỉnh dụng cụ và phương pháp trồng, Andrus có thể bắt đầu kiếm sống từ việc trồng lúa.

“Từ khi sáng kiến đó trở lại Nhật Bản trong năm 2015, sự kết hợp của sự cố vấn và tiếp cận với máy móc, như những dụng cụ và máy móc và phương pháp tương tự mà người Nhật sử dụng, điều đó giúp tôi hầu như bẻ gãy mật mã,” anh giải thích.  Anh hy vọng năm 2023 là năm Nông trại Boundbrook sẽ có thể mướn một nông dân thứ hai.

“Nó cần một thời gian dài.  Chúng tôi thử nhiều phương pháp gặt hái, chế biến sau thu hoạch, gieo mạ, cấy mạ vào ruộng, và chuẩn bị ruộng,” Andrus nói.

Giảng sư nghiên cứu lương thực Molly Anderson của Trường Middlebury ở gần Montpelier đã mang các lớp nông sinh thái của bà đến Nông trại Boundbrook để học về “cộng đồng thực hành,” kể cả hệ thống của nông dân trồng lúa ở Nhật Bản.

A sheaf of the farm's Vermont rice. Image courtesy of Boundbrook Farm.

Một bó lúa trồng ở nông trại ở Vermont. [Ảnh: Boundbrook Farm]

“Erick là nông dân lúa thương mại duy nhất ở Vermont hiện nay.  Anh trồng mùa theo khả năng của đất thay vì trồng những gì người chung quanh anh trồng, và anh dùng những lối thực hành rất nhân đạo,” Anderson nói.  “Các sinh viên rất thích nhìn vịt đang hoạt động.”

Khi Andrus khởi sự lần đầu, anh nghi ngờ họ có thể trồng nhiều lúa ở New England, nhưng không nhận ra rằng phẩm chất cũng tốt hơn cái thường thấy ở các siêu thị ở Bắc Mỹ.

“Mùi vị của lúa mới, không quá khô, là một kinh nghiệm khác – đó là cái tạo cho chúng tôi một căn bản người tiêu thụ mạnh mẽ, anh nói.  “Nó là lúa ngon nhất tôi chưa từng có.”

https://mekong-cuulong.blogspot.com/2023/04