(Từ trái sang) Tổng thống Ronald Reagan cùng nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev tại buổi lễ chào đón tại Nhà Trắng vào ngày đầu tiên của hội nghị thượng đỉnh giải trừ quân bị, hôm 8/12/1987. (Ảnh: Jerome Delay/AFP/Getty Images)
Bình luậnLam Giang • 16:19, 02/09/22
Với tư cách là kiến trúc sư của chính sách cải tổ Perestroika (tái xây dựng và tái cơ cấu) và Glasnost (mở cửa và tự do ngôn luận), nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô Mikhail Gorbache đã mở đường cho những đảo lộn to lớn, dẫn đến sự sụp đổ của khối Liên Xô và kết thúc Chiến Tranh lạnh. Phương Tây ngưỡng mộ, người Nga oán giận, rốt cuộc lịch sử nên ‘trả cho ông’ những gì và bao nhiêu?
Khi gặp ông Mikhail Gorbachev lần đầu tiên vào năm 1984, ngay trước khi ông trở thành Tổng bí thư ĐCS Liên Xô, Thủ tướng Anh lúc bấy giờ là Margaret Thatcher đã mô tả ông là “một người có thể hợp tác làm ăn”.
Trong suốt những năm 1980, thế giới biết đến ông Gorbachev, nhà lãnh đạo thứ tám và cuối cùng của Liên Xô, với tư cách là kiến trúc sư của chính sách cải tổ Perestroika (tái xây dựng và tái cơ cấu) và Glasnost (mở cửa và tự do ngôn luận), những từ đã đi vào từ vựng của chính trị phương Tây. Ông hy vọng những chính sách đối nội này sẽ thổi luồng sinh khí mới vào nền kinh tế đang thiếu máu của Liên Xô, cải tổ hệ thống chính trị và nới lỏng một số hạn chế dân sự trong bối cảnh mối quan hệ với phương Tây đang dần dần ấm lên.
Việc ông Gorbachev từ chối bóp chết phong trào tự do trong khối Liên Xô, nới lỏng kiểm duyệt đối với các phương tiện truyền thông và đời sống văn hóa, cũng như ủng hộ một thỏa thuận kiểm soát vũ khí hạt nhân mang tính bước ngoặt với Hoa Kỳ đã khiến ông được ca ngợi ở nước ngoài – nhiều hơn những gì ông từng nhận được ở chính quốc gia mình. Ông được trao giải Nobel Hòa bình năm 1990.
Ông Gorbachev viết trong một cuốn sách hai tập có tên “Life and Reforms”, xuất bản năm 1995.
Tuy nhiên, trong cuốn sách năm 2016 của mình – “The New Russia”, ông Gorbachev tin rằng thế giới cần chủ nghĩa xã hội mang bộ mặt của con người, giống như Liên Xô đã từng làm trong những năm 1980. Đồng thời, ông cho rằng điều này đòi hỏi một nền dân chủ đi kèm với một quốc hội mạnh mẽ và cơ quan tư pháp độc lập.
Cũng có nhiều mâu thuẫn dưới thời ông Gorbachev còn làm lãnh đạo Liên Xô. Ví dụ, ông Gorbachev rút quân đội Liên Xô khỏi Afghanistan và cho phép đế chế Trung Âu của Liên Xô sụp đổ trong hòa bình. Nhưng trước sự mất uy tín của mình, ông đã cử quân đội đến để cố gắng đàn áp các phong trào đòi độc lập ôn hòa ở Baltic để cố gắng “cứu vãn” Liên Xô.
Ông Gorbachev nên được trả bao nhiêu vì đã kết thúc Chiến tranh Lạnh ?
Vào tháng 4/1987, ba năm sau cuộc gặp đầu tiên với ông Gorbachev, bà Thatcher đã có chuyến thăm chính thức tới Liên Xô. Như bà đã tường thuật lại trong cuốn hồi ký của mình, “The Downing Street Years” (Những năm ở phố Downing), một trong những điểm dừng đầu tiên trong chuyến đi của bà là đến Tu viện Chính thống giáo Nga tại Zagorsk.
Vào thời điểm đó, các nhà chức trách Liên Xô vẫn kiểm soát rất chặt chẽ việc thực hành tôn giáo. Do đó, bà Thatcher đã được “Bộ trưởng phụ trách các vấn đề tôn giáo” của Liên Xô tháp tùng đến tu viện. Số lượng nhà thờ được phép mở cửa trở lại và số chủng sinh được phép học tập cũng tăng dần lên.
Bà Thatcher nhận xét, không có gì đảm bảo rằng áp lực đối với những người theo đạo Thiên chúa trong nước sẽ được xóa bỏ chỉ đơn giản là vì Perestroika và Glasnost. Thay vào đó là việc thực hành tôn giáo nên được kiềm chế. Vẫn có nhiều người bị bỏ tù vào thời điểm đó vì đã thực hành niềm tin tôn giáo của mình.
Như bà Thatcher đã viết: “Chúng tôi sẵn sàng chiến đấu trong trận chiến về các lý tưởng. Thực sự thì đây là phương thức chiến đấu đúng đắn”.
Tuy nhiên, bà tin tưởng vào sự chính trực căn bản của ông Gorbachev.
Trong một cuộc phỏng vấn của bà Thatcher với các nhà báo của đài truyền hình nhà nước Liên Xô xoay quanh vũ khí hạt nhân, cũng như ưu thế vượt trội của Liên Xô về vũ khí thông thường và vũ khí hóa học, đã được phép phát sóng mà không bị cắt.
Cuộc thảo luận giữa hai nhà lãnh đạo tập trung vào các vấn đề quốc phòng và kiểm soát vũ khí. Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (SDI) của Tổng thống Ronald Reagan, được mệnh danh là “Chiến tranh giữa các vì sao”, rõ ràng đã khiến ông Gorbachev và các đồng đội của ông phải khiếp sợ.
Bà Thatcher kể về việc ông Gorbachev đã hứa hẹn rằng Liên Xô rất phù hợp với Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược. Tuy nhiên, bà không bị thuyết phục vào lúc đó. Liên Xô tuyệt vọng về các thỏa thuận vũ khí và rõ ràng ông Gorbachev cũng không khỏi lo lắng về việc đã bị phương Tây làm cho “mất mặt”.
Niềm tin sâu sắc và kiên định của ông Reagan và bà Thatcher, cùng với niềm tin và quyết tâm thánh thiện của Giáo hoàng John Paul II có vai trò rất lớn đối với Glasnost và Perestroika cũng như ông Gorbachev.
Việc xây dựng nền quốc phòng của Mỹ dưới thời Tổng thống Reagan đã kéo nền kinh tế Liên Xô đến điểm bùng phát cho đến khi ông Gorbachev chấp nhận việc cải tổ và đảm bảo các thỏa thuận về việc hạn chế vũ khí hạt nhân.
Ông Gorbachev cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Tuy nhiên, chính ông Reagan, bà Thatcher và ông Papa Wojtyla mới là những người tạo ra những tác động cho phép nó xảy ra.
Như ông Mark Galeotti, một chuyên gia về lịch sử Nga hiện đại đã viết trong The Spectator: “Không giống như nhiều nhà lãnh đạo khác, ông ấy đã tiến hóa. Ông ấy lên nắm quyền thuyết phục rằng tất cả những gì hệ thống cần là hiện đại hóa một chút và đổi mới thương hiệu một cách nhẹ nhàng, rằng đảng là đồng minh và công cụ lớn nhất của ông ấy, để rồi cuối cùng ông đã đúng khi coi đó là trở ngại lớn nhất đối với cải cách”.
Đúng, ông Mikhail Gorbachev xứng đáng được lịch sử ghi nhận. Nhưng nếu không có Tổng thống Mỹ Reagan, Thủ tướng Anh Thatcher và Giáo hoàng John Paul II, có lẽ ông ấy đã không đạt được vị thế này.
Quan điểm được trình bày trong bài viết này là ý kiến của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.
Lam Giang