The Diplomat.  – Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm Việt Nam ngày 10/9 – Trung Quốc có xâm chiếm Việt Nam không? 

Share this post on:

Bởi thoisu 02 , Ngày 29 tháng 8 năm 2023 0 bình luận

Trung Quốc có xâm chiếm Việt Nam không? 


Chuyến thăm dự kiến ​​sẽ chứng kiến ​​hai quốc gia công bố những bước nâng cấp lớn trong quan hệ đối tác song phương.

Bởi Sebastian Strangio

Ngày 29 tháng 8 năm 2023 

Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm Việt Nam ngày 10/9

Tín dụng: Hình ảnh gửi tiền

Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ có chuyến thăm cấp nhà nước trong một ngày tới Việt Nam ngày 10/9, khi ông và lãnh đạo Việt Nam dự kiến ​​sẽ công bố nâng cấp quan hệ ngoại giao.

Ngày này được công bố hôm qua trong một tuyên bố của Thư ký báo chí của Biden, Karine Jean-Pierre, người cho biết tổng thống sẽ gặp Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, và các nhà lãnh đạo khác và “thảo luận về các cách để tăng cường hợp tác sâu sắc hơn nữa”. giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.”

Tuyên bố nói thêm rằng các nhà lãnh đạo cũng sẽ “khám phá các cơ hội để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam tập trung vào công nghệ và đổi mới, mở rộng quan hệ giữa người dân với người dân thông qua trao đổi giáo dục và các chương trình phát triển lực lượng lao động, chống biến đổi khí hậu và tăng cường hòa bình, thịnh vượng và ổn định trong khu vực”. Sau đó, Biden sẽ khởi hành đến Alaska, nơi ông sẽ tham gia lễ tưởng niệm vụ tấn công 11/9.

Mặc dù Jean-Pierre không đề cập vấn đề này, nhưng chuyến thăm của Biden dự kiến ​​sẽ chứng kiến ​​hai quốc gia công bố “quan hệ đối tác chiến lược”, một bản nâng cấp của “mối quan hệ đối tác toàn diện” hiện tại.

Bản thân Biden gần đây đã hai lần đề cập đến khả năng nâng cấp quan hệ với Việt Nam, vốn là mục tiêu của Mỹ trong nhiều năm. Năm nay, các quan chức Hoa Kỳ đặc biệt thẳng thắn về mong muốn nâng cấp mối quan hệ từ “đối tác toàn diện” được thiết lập năm 2013, nằm ở vị trí cuối cùng trong phân loại ngoại giao ba cấp của Việt Nam, lên quan hệ đối tác “chiến lược”. Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 4 , Ngoại trưởng Antony Blinken nói rằng việc nâng cao quan hệ chính thức có thể xảy ra “trong những tuần và tháng tới”.

Sự mơ hồ trong những nhận xét trước đây của Biden thậm chí còn dẫn đến những tin đồn vô căn cứ rằng hai nước có thể đi tắt đón đầu mối quan hệ chiến lược và công bố “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” – cấp độ cao nhất trong phân loại ngoại giao của Việt Nam. Hà Nội hiện chỉ có quan hệ đối tác toàn diện với Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và Hàn Quốc.

Việc nâng cấp sẽ đánh dấu một cột mốc quan trọng trong mối quan hệ giữa Hà Nội và Washington, vốn đã phát triển vượt bậc trong hai thập kỷ qua. Như tôi đã lưu ý trước đây , việc nâng cấp hầu như sẽ làm hài hòa hình thức bề ngoài của mối quan hệ giữa hai quốc gia với thực chất. Trong khi ranh giới giữa các chỉ định ngoại giao khác nhau còn mơ hồ và lỏng lẻo, một quan chức Mỹ am hiểu về các cuộc đàm phán đã nói với Politico tuần trước rằng việc nâng cấp “sẽ cho phép sự hợp tác song phương mới nhằm thúc đẩy nỗ lực của Việt Nam phát triển lĩnh vực công nghệ cao bao gồm cả chất bán dẫn, sản xuất và trí tuệ nhân tạo.”

Mặc dù nó có thể được thúc đẩy một phần bởi những lo ngại về Trung Quốc, đặc biệt là những hành động quyết đoán gần đây của nước này ở Biển Đông, nhưng việc nâng cấp quan hệ với Mỹ sẽ rất phù hợp với chính sách đối ngoại mà nước này đã theo đuổi trong hai thập kỷ qua. Điều này dựa trên việc xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với càng nhiều cường quốc bên ngoài càng tốt, nhằm cải thiện vị trí chiến lược khó xử của nước này ở sườn phía nam Trung Quốc.

Đây cũng chỉ là một trong số những nâng cấp mà Việt Nam đã làm trung gian hoặc đang xem xét trong thời gian tới. Trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam tuần này của Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long, hai nước cho biết họ đang xem xét nâng mối quan hệ lên cấp “chiến lược toàn diện” và Việt Nam cũng vừa cam kết làm như vậy với Australia.

Sebastián Strangio

Sebastian Strangio là biên tập viên Đông Nam Á của The Diplomat. 


Christelle Nguyễn: Trung Quốc có xâm chiếm Việt Nam không?

Trong bài viết xem xét mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam, đặc biệt tập trung vào ảnh hưởng và sự chiếm đóng của Trung Quốc tại Việt Nam, tác giả cho biết nhiều sinh viên Trung Quốc không nhận thức được sự xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam, phản ánh sự thiếu giáo dục và nghiên cứu về lịch sử Việt Nam ở Trung Quốc. Bài viết khám phá những quan điểm và câu chuyện khác nhau xung quanh thời kỳ Bắc thuộc. Lịch sử dân tộc chủ nghĩa của Việt Nam nhấn mạnh đến sự phản kháng và độc lập khỏi sự cai trị của Trung Quốc. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam phức tạp hơn, khi giới tinh hoa Việt Nam đôi khi tìm kiếm sự bảo vệ và ảnh hưởng của Trung Quốc. Tác giả cũng lập luận rằng việc kiểm soát chặt chẽ sách giáo khoa lịch sử ở cả Trung Quốc và Việt Nam đã định hình cách kể và cách hiểu về lịch sử ở hai nước. Nhìn chung, theo tác giả, sự hiện diện lịch sử của Trung Quốc tại Việt Nam có một bản chất phức tạp và gây tranh cãi.

Trung Quốc có xâm chiếm Việt Nam không? 

Người Việt thường nói về lịch sử thống trị lâu dài của người Trung Quốc, trong khi thanh niên Trung Quốc được dạy rằng lãnh thổ Việt Nam trước đây là một phần của Trung Quốc.

Bởi Christelle Nguyễn*

Ngày 24 tháng 8 năm 2023 

* Christelle Nguyễn

Christelle Nguyễn là nhà nghiên cứu phát triển ở Đông Nam Á. Mối quan tâm của cô bao gồm chính trị Đông Á và ngoại giao công nghệ.

Trung Quốc có xâm chiếm Việt Nam không?

Trong ảnh chụp ngày 24 tháng 7 năm 2016 này, những người biểu tình Việt Nam hô khẩu hiệu trong khi giơ biểu ngữ chống Trung Quốc trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc gần Đại sứ quán nước này ở Seoul, Hàn Quốc.

Nguồn: Ảnh AP/Ahn Young-joon

Nếu Xie Yan đến từ Trùng Khánh chưa từng học tiếng Việt và dành thời gian ở Hà Nội với tư cách là sinh viên trao đổi vào năm 2013, cô ấy đã không biết rằng Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm đóng trong nhiều thế kỷ. Cô cũng không hề biết rằng trong phần lớn lịch sử của mình, thực thể được gọi là Việt Nam ngày nay đã sử dụng các ký tự cổ điển của Trung Quốc để viết. 

Ở Việt Nam, Xie lần đầu tiên biết đến thuật ngữ “hoàng năm bắc thuộc ” (nghìn năm Bắc chiếm). Trong tiếng Việt, nó đề cập đến sự cai trị đầu tiên của Trung Quốc ở miền bắc Việt Nam. Trong sách giáo khoa Trung Quốc về lịch sử Việt Nam trong cả chương trình Cử nhân và Thạc sĩ về Việt Nam học của Xie, thời kỳ này chủ yếu được gọi là 郡县时期 ( junxian shiqi hay thời kỳ tỉnh).

“Lúc đầu tôi bị sốc bởi cái tên ‘bắc thuộc’,” Xie nói và thừa nhận rằng các đồng nghiệp của cô cũng không biết thuật ngữ đó – với tất cả những gì nó ám chỉ về sự cai trị của Trung Quốc đối với Việt Nam.

Xie không hề biết rằng lịch sử của địa điểm yêu thích của cô ở Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm, cũng có mối liên hệ với quê hương cô. Theo truyền thuyết Việt Nam, vua Lê Lợi đã nhận được thanh kiếm thần từ một con rùa thần, giúp ông chiến đấu chống lại quân xâm lược nhà Minh vào thế kỷ 15 thành công. Sau khi lên ngôi lập nên nhà Lê, Lê Lợi đã trả gươm về hồ nên hồ được đặt tên là Hoàn Kiếm, trong tiếng Việt có nghĩa là “Trả gươm”.

Tương tự, khi Zhang Xiao Shu, người gốc Quý Châu, đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 2012 với tư cách là sinh viên trao đổi, cô không hề biết tại sao một số chủ nhà lớn tuổi lại từ chối thuê căn hộ cho cô khi nhìn thấy hộ chiếu Trung Quốc của cô. Lúc đó đang học chuyên ngành Việt ngữ, cô biết rất ít về lịch sử đấu tranh chống Trung Quốc của Việt Nam, và rằng Trung Quốc được biết đến ở Việt Nam như một kẻ xâm lược xuất sắc, điều này góp phần phần lớn vào tình cảm chống Trung Quốc đang thịnh hành ở nước này. 

 Zhang nói: “Tôi không biết người Việt Nam thường nói rằng Trung Quốc đã chiếm đóng Việt Nam trong 1.000 năm.

Như một dấu hiệu cho thấy sự khác biệt trong các câu chuyện lịch sử, Zhang nhớ lại rằng khi dịch từ tiếng Việt sang tiếng Trung, cô thường dịch những tài liệu tham khảo về sự thuộc địa hoặc sự chiếm đóng của Trung Quốc là “junxian shiqi,” để phù hợp với lịch sử truyền thống của Trung Quốc.

Các cuộc phỏng vấn với 21 thanh niên Trung Quốc ở khu vực thành thị cho thấy kiến ​​thức hạn chế của họ về mối liên hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trong khi thanh niên Trung Quốc được giáo dục tốt về nạn nhân lịch sử của đất nước họ dưới thời thuộc địa – thường được gọi là “trăm năm tủi nhục” (百年国耻) – thì họ vẫn không biết gì về sự thống trị ban đầu của Trung Quốc đối với Việt Nam cũng như mối quan hệ phức tạp và gây tranh cãi giữa Trung Quốc và Trung Quốc. hai nước mà một số học giả Việt Nam và phương Tây gọi là thuộc địa .

Chính trị hóa Việt Nam ở Trung Quốc

Trong cuốn sách “Từ Giao Chỉ đến Yuenan” năm 2022 của Gu Xiaosong, Liang Maohua và Xiong Shiping, lãnh thổ Việt Nam được coi là một phần lãnh thổ của Trung Quốc và được gọi bằng nhiều tên khác nhau, tùy theo thời kỳ: Đồng bằng sông Hồng và các vùng lân cận (trước năm 214 trước Công nguyên); Tương Quân (214 – 207 TCN); Giao Chỉ (207 – 111 TCN); ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (111 TCN – 203 SCN); Tiêu Châu (203 – 679); và Annan (679 – 1803). Chỉ đến năm 1803, cái tên Việt Nam (Yuenan trong tiếng Quan thoại), do nhà Thanh chỉ định, mới ra đời. 

Theo một nhà nghiên cứu trẻ Trung Quốc ở nước ngoài, mặc dù Việt Nam là nước láng giềng quan trọng nhưng chỉ có một số ít cơ quan trên khắp Trung Quốc nghiên cứu về Việt Nam. Thậm chí còn ít tập trung vào lịch sử Việt Nam. Những cuốn sách lớn dành cho người học tiếng Việt được viết bởi các nhà sử học Trung Quốc, những người thiếu trình độ tiếng Việt và kinh nghiệm thực tế sống ở Việt Nam. 

“Đối với các học giả trẻ Trung Quốc mới bắt đầu nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, không có nhiều lựa chọn về sách,” học giả này yêu cầu giấu tên vì trả lời phỏng vấn mà không có sự cho phép của cấp trên có thể gây rắc rối. 

Ngoài ra, học giả giấu tên cho rằng học thuật Trung Quốc tập trung vào Việt Nam không công nhận bất kỳ quốc gia độc lập nào của Việt Nam trước thời kỳ đầu cai trị của Trung Quốc, ví dụ như Văn Lang hay Âu Lạc. 

Trong cuốn sách “Nghiên cứu về quan hệ Trung-Việt” xuất bản năm 2015, Gu Xiaosong, trưởng khoa Viện nghiên cứu ASEAN tại Đại học Hải dương Nhiệt đới Hải Nam, đã trực tiếp bác bỏ sự tồn tại của một quốc gia độc lập ban đầu ở Việt Nam hiện đại. Gu lập luận rằng cách mô tả của Việt Nam về quyền tự chủ từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, cũng như cách miêu tả đế quốc Trung Quốc lúc bấy giờ là “kẻ xâm lược phương bắc” là không phù hợp với “lịch sử khách quan”. 

“Văn Lang​​ chỉ là truyền thuyết. Rất có thể trong lịch sử đã từng có một bộ tộc có tên đó, nhưng nó khác xa với khái niệm một quốc gia”, Gu viết.

Có lý do cho cách tiếp cận thống nhất: Trung Quốc đã thực hiện các quy định nghiêm ngặt về nghiên cứu ở Việt Nam, tương tự như cách chính phủ Việt Nam duy trì quyền kiểm soát học bổng của mình đối với Trung Quốc.

Học giả trẻ này cho biết: “Có rất nhiều vấn đề tế nhị về mặt chính trị khi nghiên cứu về Việt Nam. Đặc biệt, các cuốn sách về quan hệ ngoại giao và chính trị đặc biệt bị giám sát chặt chẽ. “Nghiên cứu về Việt Nam không được các học giả quan tâm vì có thể phải động đến nhiều vấn đề nhạy cảm”, học giả nói. “Bây giờ việc nghiên cứu thêm về Việt Nam dưới thời Tập Cận Bình thậm chí còn khó khăn hơn”.

Một giáo sư người Trung Quốc đại lục tại một trường đại học danh tiếng ở Bắc Kinh đang gặp khó khăn trong việc xuất bản cuốn sách về lịch sử Việt Nam vì cơ quan kiểm duyệt đã phát hiện ra một số vấn đề trong cuốn sách của ông. Giáo sư nói : “Một trong những vấn đề liên quan đến việc tôi đề cập đến Beishu hay Sự chiếm đóng phía Bắc.

Hai chuyên gia khác ở Trung Quốc về Việt Nam đã không trả lời yêu cầu bình luận về thời kỳ Junxian.

Việt Nam miêu tả Trung Quốc như một kẻ xâm lược liên tục

Ngược lại, người Việt Nam đã thấm nhuần lịch sử nhiều lần Trung Quốc chinh phục quê hương của họ. Ngay từ khi còn nhỏ, học sinh Việt Nam đã được dạy một cách chính thức và không chính thức về câu chuyện tình yêu nghiệt ngã của Mỵ Châu và Trọng Thuỷ (tiếng Quan thoại gọi là Zhong Shi). Trọng Thủy, con trai Thống đốc Triệu Đà (Triệu Đà), người Nam Hải quận, là một phần của quân Tần được phái đi chinh phục vùng đất này. Mị Châu là con gái của vua An Dương, người cai trị vương quốc Âu Lạc. Cả hai phe đã bế tắc trong một cuộc chiến kéo dài gần một thập kỷ, với việc Triệu Đà chinh phục nửa phía bắc Âu Lạc bằng những nỗ lực vất vả chống lại chiến thuật chiến tranh du kích của các bộ tộc Âu Việt. Trong khi đó, vua An Dương đã bảo vệ thành công các vùng lãnh thổ còn lại và kinh đô Cổ Loa với sự trợ giúp của một chiếc nỏ thần (như truyền thuyết kể lại).

Sau một thời gian, Triệu Đà và vua An Dương đồng ý đình chiến và thành lập liên minh, được củng cố bằng cuộc hôn nhân của Trọng Thủy và Mỵ Châu. Cặp đôi đã phát triển một tình yêu sâu sắc và chân thật dành cho nhau. Tuy nhiên, Trọng Thủy sau khi dời về Cổ Loa cũng làm gián điệp cho cha mình, lấy trộm nỏ rồi thay nỏ giả với sự giúp đỡ của Mỵ Châu. Quá tức giận trước sự phản bội của con gái, vua An Dương đã giết Mỵ Châu rồi nhảy xuống sông. Hành động này đã góp phần làm Âu Lạc sụp đổ và dẫn đến sự xuất hiện của một vương quốc Nam Việt độc lập mới do Triệu Đà thành lập vào năm 204 trước Công nguyên.

Những câu chuyện theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh vào những chiến thắng quân sự đối với đất nước trước Trung Quốc và việc nước này kiên quyết từ chối hòa nhập về mặt văn hóa (của Trung Quốc). Hầu như mọi triều đại Việt Nam đều tham gia vào các cuộc xung đột chống lại quân đội phương Bắc. Ví dụ, chị em bà Trưng đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại nhà Hán cầm quyền của Trung Quốc vào năm 43 sau Công nguyên, thành công trong việc thiết lập một nhà nước độc lập tồn tại trong thời gian ngắn. Ngô Quyền đã đánh bại quân Nam Hán của Trung Quốc, bảo vệ nền độc lập của Việt Nam khỏi sự thống trị của Trung Quốc vào năm 938. Nhiều nhà lãnh đạo trong số này đã trở thành anh hùng dân tộc và tên của họ đã được ban tặng ở nhiều nơi trên khắp Việt Nam như một sự tưởng nhớ cho di sản của họ.

Qua nhiều thế hệ sử gia Việt Nam khác nhau, bao gồm cả những tác phẩm nổi bật như “Đại Việt toàn thư” vào thế kỷ 15, một cách tiếp cận nhất quán đã được thực hiện, mô tả sự chiếm đóng của phương Bắc như một nguồn phẫn nộ và châm ngòi cho cuộc nổi dậy của những người dân thuộc địa.  

Tuy nhiên, sau mỗi cuộc xung đột, các nhà cai trị Việt Nam đều nỗ lực hết sức để khôi phục hệ thống triều cống. Những kẻ chiến thắng đã chủ động cử sứ giả đến Bắc Kinh, bày tỏ sự tôn trọng đối với kẻ chiến bại để được công nhận. Đối với người Việt Nam, trọng tâm không phải lúc nào cũng là cạnh tranh với nước láng giềng khổng lồ phía bắc mà là cùng tồn tại hài hòa và thúc đẩy các mối quan hệ sản xuất.

Trong cuốn sách “Đối ngoại, các khu vực biên giới hài hòa và vị trí chiến lược của Trung Quốc” xuất bản năm 2016, Xing Quang Cheng và Li Quoqiang nhận thấy rằng Việt Nam luôn coi “việc chống lại sự xâm lược của Trung Quốc là chủ đề chính của giáo dục lịch sử và quốc phòng” ngay cả khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1991 

“Việt Nam hạ thấp thực tế lịch sử về sự hỗ trợ của Trung Quốc đối với Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của Pháp và Mỹ, đồng thời nhấn mạnh sự kế thừa của Việt Nam đối với cái gọi là ‘lãnh thổ’ trong thời kỳ thuộc địa của Pháp,” Xing và Li lập luận. 

Thuộc địa có thể tranh cãi 

Tiến sĩ Kathlene Baldanza, phó giáo sư lịch sử và nghiên cứu châu Á tại Đại học bang Pennsylvania, nhấn mạnh rằng trong thiên niên kỷ từ năm 111 trước Công nguyên cho đến khi Việt Nam giành được độc lập vào thế kỷ thứ 10, không có “Việt Nam” như chúng ta nghĩ ngày nay và không có sự bất biến và liên tục. “Trung Quốc” không thay đổi. 

Baldanza cho biết: “Những xung đột và mối liên hệ giữa hai nơi rất phức tạp và khó hiểu. 

Để đạt được mục tiêu đó, Giáo sư Vũ Tường, một nhà khoa học chính trị từ Đại học Oregon, lập luận rằng sự can thiệp của Trung Quốc thường được mô tả trong lịch sử dân tộc Việt Nam đương đại là “những cuộc xâm lược của nước ngoài”, bỏ qua thực tế là nhiều cuộc xâm lược này được thúc đẩy bởi yêu cầu của một bộ phận đáng kể của giới thượng lưu Việt Nam.

“Người ta nên tránh sử dụng các thuật ngữ ‘thuộc địa’, ‘Trung Quốc’ và ‘Việt Nam’ vì tất cả đều là những khái niệm hiện đại. Thay vào đó, tốt hơn nên nói ‘Nhà Hán cai trị vùng đồng bằng sông Hồng’”, Vũ nói qua email.

Trong một bài viết năm 2016 , Vũ đã trích dẫn nhiều ví dụ trong đó mong muốn được trở thành một phần của Sinosphere. Ông viết: “Nhiều tầng lớp tinh hoa Việt Nam thời tiền hiện đại cảm thấy tự hào vì là một phần của thế giới Hán hóa và tìm cách áp đặt các thể chế và văn hóa Hán lên nước láng giềng Campuchia khi họ có cơ hội vào thế kỷ 19”. 

Trước mối đe dọa ngày càng tăng từ người Pháp vào giữa thế kỷ 19, giới tinh hoa Việt Nam thậm chí còn tìm kiếm sự bảo vệ của Trung Quốc. Các nhà cai trị nhà Nguyễn quay sang cầu cứu Bắc Kinh, chỉ để thấy Trung Quốc bị sỉ nhục dưới tay người Pháp.  

Trong một bài báo năm 2013 , Giáo sư James Anderson lưu ý rằng hai thực thể này phát triển mạnh mẽ dựa trên các nguyên tắc hòa hợp và bá quyền cùng một lúc. Nhà nước Việt Nam tiền hiện đại đã có thể tồn tại ở vùng ngoại vi của nhiều đế quốc Trung Quốc khác nhau thông qua “nghi thức ngoại giao dựa trên quà tặng của hệ thống triều cống”, điều này không nên chỉ được nhìn qua lăng kính đế quốc của quá khứ gần đây. Động lực của các mối quan hệ được định hình bởi điểm mạnh và điểm yếu tương đối của mỗi bên và thay đổi theo từng khoảng thời gian.

Anderson viết: “Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã thương lượng địa vị của họ trong hệ thống triều cống của Trung Quốc theo cách nhằm thiết lập nền độc lập cho khu vực trong khi vẫn duy trì kiểm soát các cuộc xâm lược của Trung Quốc”. 

Không có đất cho lịch sử miễn phí 

Tuy nhiên, ở cả Trung Quốc và Việt Nam, lịch sử không được dạy như một công cụ phản ánh mà đúng hơn là một phương tiện của chủ nghĩa dân tộc. Cả hai chính phủ do Đảng Cộng sản cai trị đều giữ độc quyền xuất bản sách giáo khoa lịch sử. Dạy lịch sử nhằm nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và lòng yêu nước, đồng thời xây dựng lòng tự hào, sứ mệnh và trách nhiệm của công dân. Ở cả hai quốc gia, việc học lịch sử có đặc điểm là học thuộc lòng theo định hướng thi cử về các sự kiện đã được xác lập và có rất ít chỗ cho tư duy phản biện. 

Bắc Kinh đã thắt chặt kiểm soát sách giáo khoa lịch sử trong những năm gần đây. Năm 2017, Chủ tịch Tập Cận Bình đã chấm dứt thói quen đa dạng hóa sách giáo khoa lịch sử trên khắp Trung Quốc. Thay vào đó, ông ủy quyền cho một loạt sách giáo khoa được Bộ Giáo dục trực tiếp viết và phê duyệt. Không chỉ học sinh được yêu cầu ghi nhớ nội dung của những cuốn sách giáo khoa này mà hầu hết giáo viên cũng dựa rất nhiều vào chúng để giảng dạy.

Bộ Giáo dục thực hiện quyền trực tiếp đối với cả nội dung sách giáo khoa lịch sử và phương pháp giảng dạy. Bản chính thức của lịch sử Trung Quốc hiện đại được phát biểu như sau: “Lịch sử hiện đại Trung Quốc là một lịch sử tủi nhục khi Trung Quốc dần thoái hóa thành một xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến; đồng thời, đó cũng là lịch sử nhân dân Trung Quốc đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, kiên trì đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến, đồng thời cũng là lịch sử thành công của Cách mạng dân chủ mới dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ.”  

Dễ hiểu là giáo dục lịch sử ở Trung Quốc có xu hướng tập trung vào lịch sử của đất nước hơn là lịch sử của các quốc gia khác. Trong sách giáo khoa tiếng Trung, Trung Quốc là nạn nhân chứ không phải thủ phạm bạo lực. Điều này có nghĩa là hệ thống giáo dục Trung Quốc có thể không chú trọng nhiều đến việc dạy học sinh về quá khứ xâm lược Việt Nam của Trung Quốc (hoặc các quốc gia láng giềng khác).

Thông qua việc cung cấp cho sinh viên quan điểm duy nhất và “đúng đắn”, sách giáo khoa lịch sử Trung Quốc thường thành công trong việc thuyết phục độc giả chấp nhận những câu chuyện phù hợp với hệ tư tưởng cộng sản Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc có thể hạ thấp hoặc bỏ qua một số sự kiện lịch sử nhất định có thể phản ánh tiêu cực về hành động của Trung Quốc trong quá khứ. Theo Baldanza, sự thiếu sót này không có gì đáng ngạc nhiên.  

Bà nói: “Sự thống trị kéo dài hàng thiên niên kỷ của Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam không phải là một phần quan trọng trong chương trình giảng dạy của Trung Quốc, bởi vì nó không dễ phù hợp với những câu chuyện mà Trung Quốc kể về chính mình”. “Việc chống lại sự xâm lược của Trung Quốc là một phần quan trọng trong câu chuyện dân tộc của Việt Nam, vì vậy thời kỳ thống trị của Trung Quốc càng quan trọng hơn đối với ký ức lịch sử Việt Nam.”

Tuy nhiên, bà nói thêm rằng những kiểu bỏ sót này không phải là hiếm trong các sử sách ở các quốc gia khác.  

“Chẳng hạn, có bao nhiêu người Mỹ có thể giải thích mối quan hệ của Mỹ với Puerto Rico hoặc biết về hành động của Mỹ ở Philippines sau Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha?” Baldanza hỏi.

* Christelle Nguyễn

Christelle Nguyễn là nhà nghiên cứu phát triển ở Đông Nam Á. Mối quan tâm của cô bao gồm chính trị Đông Á và ngoại giao công nghệ.

HD Press phỏng dịch.


English

Did China Colonize Vietnam? 

The visit is expected to see the two nations announced a major upgrade to their bilateral partnership.

By Sebastian Strangio

August 29, 2023 

US President Joe Biden to Visit Vietnam on September 10

Credit: Depositphotos

U.S. President Joe Biden will make a one-day state visit to Vietnam on September 10, when he and his Vietnamese hosts are expected to announce an upgrade to their diplomatic relationship.

The date was announced yesterday in a statement by Biden’s Press Secretary Karine Jean-Pierre, who said that the president will meet with Nguyen Phu Trong, the general secretary of the Communist Party of Vietnam, and other leaders and “discuss ways to further deepen cooperation between the United States and Vietnam.”

It added that the leaders will also “explore opportunities to promote the growth of a technology-focused and innovation-driven Vietnamese economy, expand our people-to-people ties through education exchanges and workforce development programs, combat climate change, and increase peace, prosperity, and stability in the region.” Biden will then depart for Alaska, where he will take part in a commemoration of the 9/11 attacks.

While Jean-Pierre made no mention of it, Biden’s visit is expected to see the two nations announce a “strategic partnership,” an upgrade on the current “comprehensive partnership.”

Biden himself has on two recent occasions made references to a possible upgrade in relations with Vietnam, which has been a goal of the U.S. for a number of years. This year, U.S. officials have been particularly outspoken about the desire to upgrade the relationship from the “comprehensive partnership,” established in 2013, which sits at the bottom of Vietnam’s three-tier diplomatic taxonomy, to a “strategic” partnership. During his visit to Vietnam in April, Secretary of State Antony Blinken, said that an elevation of formal ties could occur “in the weeks and months ahead.”

The vagueness of Biden’s past remarks has even led to unfounded reports that the two nations might leapfrog the strategic relationship and announce a “comprehensive strategic partnership” – the top tier of Vietnam’s diplomatic taxonomy. Hanoi currently only has comprehensive partnerships with China, Russia, India, and South Korea.

An upgrade would represent a milestone in the relationship between Hanoi and Washington, which has grown tremendously over the past two decades. As I’ve noted before, an upgrade would mostly harmonize the outward form of the two nations’ relationship with the substance. While the boundaries between the various diplomatic designations are vague and porous, one U.S. official with knowledge of the negotiations told Politico last week that the upgrade “will allow for new bilateral collaboration that will boost Vietnam’s efforts to develop its high technology sector in areas including semiconductor production, and artificial intelligence.”

While it might be motivated in part by concerns about China, particularly its recent assertive actions in the South China Sea, an upgrade in relations with the U.S. would very much conform to the foreign policy that the country has pursued for the past two decades. This is based on building close relations with as many major outside powers as possible, in order to ameliorate its awkward strategic location on China’s southern flank.

It would also be just one of a number of upgrades that Vietnam has brokered or is considering in the near future. During this week’s state visit to Vietnam by Singapore’s Prime Minister Lee Hsien Loong, the two nations said that they are considering the elevation of their relationship to the “comprehensive strategic” level, and Vietnam has also just committed to doing so with Australia.

Staff Author

Sebastian Strangio

Sebastian Strangio is Southeast Asia editor at The Diplomat. 

Christelle Nguyễn: Trung Quốc có xâm chiếm Việt Nam không?

Trong bài viết xem xét mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam, đặc biệt tập trung vào ảnh hưởng và sự chiếm đóng của Trung Quốc tại Việt Nam, tác giả cho biết nhiều sinh viên Trung Quốc không nhận thức được sự xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam, phản ánh sự thiếu giáo dục và nghiên cứu về lịch sử Việt Nam ở Trung Quốc. Bài viết khám phá những quan điểm và câu chuyện khác nhau xung quanh thời kỳ Bắc thuộc. Lịch sử dân tộc chủ nghĩa của Việt Nam nhấn mạnh đến sự phản kháng và độc lập khỏi sự cai trị của Trung Quốc. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam phức tạp hơn, khi giới tinh hoa Việt Nam đôi khi tìm kiếm sự bảo vệ và ảnh hưởng của Trung Quốc. Tác giả cũng lập luận rằng việc kiểm soát chặt chẽ sách giáo khoa lịch sử ở cả Trung Quốc và Việt Nam đã định hình cách kể và cách hiểu về lịch sử ở hai nước. Nhìn chung, theo tác giả, sự hiện diện lịch sử của Trung Quốc tại Việt Nam có một bản chất phức tạp và gây tranh cãi.

Did China Colonize Vietnam? 

Vietnamese often speak of a long history of domination at Chinese hands, while Chinese youths are taught that Vietnamese territory was previously part of China.

By Christelle Nguyen*

August 24, 2023 

* Christelle Nguyen

Christelle Nguyen is a development researcher based in Southeast Asia. Her interests include East Asian politics and tech diplomacy.

Did China Colonize Vietnam?

In this July 24, 2016, file photo, Vietnamese protesters shout slogans while showing an anti-China placard during a rally against China near the Chinese Embassy in Seoul, South Korea.

Credit: AP Photo/Ahn Young-joon

Had Xie Yan from Chongqing never studied Vietnamese language and spent time in Hanoi as an exchange student back in 2013, she would not have known that Vietnam was under Chinese occupation for centuries. Nor had she been aware that for most of its history, the entity known as Vietnam today used classical Chinese characters in writing. 

In Vietnam, Xie came across the term “nghìn năm bắc thuộc” (a thousand years of Northern occupation) for the first time. In Vietnamese, it refers to the early Chinese rule of northern Vietnam. In Chinese textbooks on Vietnamese history in both Xie’s BA and MA program on Vietnamese studies, this era was mostly called 郡县时期 (junxian shiqi or prefectural period).

“I was in the beginning shocked by the name ‘bắc thuộc,’” said Xie, admitting that her peers did not know that term either – with all it implies about Chinese rule over Vietnam.

Little did Xie know that the history of her favorite place in Hanoi, Hoàn Kiếm lake,  has a connection with her home country as well. According to Vietnamese legend, Emperor Lê Lợi received a magical sword from a saintly turtle, which helped him successfully fight against invading Ming forces in the 15th century. After ascending to the throne and founding the Lê Dynasty, Lê Lợi returned the sword to the lake, which led to the lake being named Hoàn Kiếm, meaning “Returning the Sword” in Vietnamese.

Similarly, when Zhang Xiao Shu, originally from Guizhou province, first came to Vietnam in 2012 as an exchange student, she did not have the faintest idea as to why a few elderly landlords declined to rent her an apartment upon seeing her Chinese passport. A Vietnamese language major at that time, she had little idea of the Vietnamese history of fighting against China, and that China is known in Vietnam as an aggressor par excellence, which largely contributed to the prevailing anti-China sentiments in the country. 

 “I did not know the Vietnamese people would normally say China had occupied Vietnam for 1,000 years,” said Zhang.

As a sign of the divergence in historical narratives, Zhang recalled that when doing Vietnamese-to-Chinese translation, she often translated references to Chinese colonization or occupation as “junxian shiqi,” to be in line with traditional Chinese historiography.

Interviews with 21 Chinese youths in urban areas testified to their limited knowledge about the historical links between China and Vietnam. While Chinese youths are well educated about their country’s historical victimhood under colonization – commonly referred to as the “hundred years of national humiliation” (百年国耻) – they remain in the dark about China’s early domination of Vietnam and the complex and contentious relationship between the two countries, which a number of Vietnamese and Western scholars refer to as colonization.

Politicized Vietnamology in China

In the 2022 book “From Jiaozhi to Yuenan” by Gu Xiaosong, Liang Maohua, and Xiong Shiping, Vietnamese territory was considered part of China’s territory and was referred to by different names, depending on the time periods: Red River Delta and its surrounding areas (prior to 214 BC); Xiangjun (214 – 207 BC); Jiaozhi (207 – 111 BC); the three prefectures of Jiaozhi, Jiuzhen, and Rinan (111 BC – 203 AD); Jiao Zhou (203 – 679); and Annan (679 – 1803). Only in 1803 did the name Vietnam (Yuenan in Mandarin), designated by the Qing Dynasty, come into being. 

According to a young Chinese researcher based overseas, even though Vietnam is an important neighbor, there are only a small number of  institutions throughout China that do research on Vietnam. Even fewer focus on Vietnamese history. Major books for Vietnamese language learners are written by Chinese historians who lack Vietnamese language proficiency and practical experience living in Vietnam. 

“For Chinese junior scholars who just started doing research on Vietnamese history, there are not many book options,” said the scholar, who asked to remain anonymous because giving an interview without his superiors’ permission might cause trouble. 

In addition, the anonymous scholar said that Chinese language scholarship focused on Vietnam does not recognize any Vietnamese independent state before the early rule of China, for example, Văn Lang or Âu Lạc. 

In his 2015 book “Research on Sino-Vietnamese Relations,” Gu Xiaosong, dean of the ASEAN Research Institute at Hainan Tropical Ocean University, directly refuted the existence of an early independent state in modern Vietnam. Gu argued that that Vietnam’s description of autonomy from the 3rd to 4th century BC, as well as its depiction of the then Chinese empire as a “northern invader,” is not in line with the “objective history.” 

“Văn Lang​​ is merely a legend. It is highly likely that there was a tribe in history with that name, but it falls far short of the concept of a nation,” wrote Gu.

There’s a reason for the uniform approach: China has implemented rigorous regulations on research into Vietnam, similar to how the Vietnamese government has maintained control over its own scholarship on China.

“There are a lot of politically delicate issues when it comes to research on Vietnam,” said the junior scholar.  In particular, books on diplomatic and political relations are particularly subject to scrutiny. “Research on Vietnam is not of interest to scholars because one might have to touch on many sensitive issues,” said the scholar. “It is now even harder to do more research on Vietnam under Xi.”

A mainland Chinese professor at a prestigious university in Beijing is struggling to have his book on Vietnamese history published, since censors have detected some issues with his book. “One of the issues is related to my mention of Beishu or Northern Occupation,” said the professor.

Two other China-based experts on Vietnam did not respond to requests for comment on the junxian period.

Vietnam’s Portrayal of China as a Perpetual Invader

By contrast, Vietnamese are well-steeped in the history of China’s repeated conquests of their homeland. At an early age, Vietnamese students are taught, formally and informally, the ill-fated love story of Mỵ Châu and Trọng Thuỷ (known as Zhong Shi in Mandarin). Trọng Thủy, son of Governor Triệu Đà (Zhao Tuo) from the Nanhai Commandery, was part of the Qin Expeditionary Force dispatched to conquer the region. Mỵ Châu was the daughter of King An Dương, who ruled over the kingdom of Âu Lạc. Both factions had been deadlocked in a nearly decade-long war, with Triệu Đà conquering the northern half of Âu Lạc through strenuous efforts against the guerilla warfare tactics of the Âu Việt tribes. Meanwhile, King An Dương had successfully defended the remaining territories and the capital, Cổ Loa, with the help of a magic crossbow (as the legend goes).

After a period of time, Triệu Đà  and King An Dương agreed to a ceasefire and formed an alliance, solidified by the marriage of Trọng Thủy and Mỵ Châu. The couple developed a deep and genuine love for each other. However, Trọng Thủy, after relocating to Cổ Loa, also acted as a spy for his father, stealing the crossbow and replacing it with a fake one with the help of Mỵ Châu. Consumed by anger over his daughter’s betrayal, King An Dương killed Mỵ Châu and jumped into a river. This act contributed to the downfall of Âu Lạc and led to the emergence of a new independent kingdom of Nam Việt, established by Triệu Đà in 204 BC.

Nationalist narratives in Vietnam place great emphasis on the country’s military victories against China and its steadfast refusal to be culturally assimilated. Almost every Vietnamese dynasty engaged in conflicts against Northern armies. The Trưng sisters, for instance, led a rebellion against the ruling Chinese Han Dynasty in 43 AD, successfully establishing a short-lived independent state. Ngô Quyền defeated the Chinese Southern Han army, securing Vietnam’s independence from Chinese domination in 938. Many of these leaders became national heroes, and their names were bestowed upon numerous places throughout Vietnam as a tribute to their legacy.

Throughout different generations of Vietnamese historians, including prominent works like the “Complete Annals of Đại Việt” in the 15th century, a consistent approach has been taken, depicting the Northern occupation as a source of indignation and fuel for rebellion among the colonized.  

Nevertheless, following each conflict, Vietnamese rulers made every effort to restore the tributary system. The victors took the initiative by dispatching envoys to Beijing, offering respect to the vanquished in return for recognition. For the Vietnamese, the focus was not always on competing with their massive northern neighbor, but rather on coexisting harmoniously and fostering productive relationships.

In their 2016 book “Foreign Relations, Harmonious Border Regions, and China’s Strategic Positioning,” Xing Quangcheng and Li Quoqiang noticed that Vietnam has always regarded “resistance against Chinese aggression as the main theme of historical and national defense education,” even though the two countries normalized their diplomatic ties in 1991. 

“Vietnam downplays the historical fact of China’s assistance to Vietnam in its resistance against French and American aggression, and emphasizes Vietnam’s inheritance of the so-called ‘territory’ during the period of French colonization,” argued Xing and Li. 

Contestable Colonization 

Dr. Kathlene Baldanza, an associate professor of history and Asian studies at Pennsylvania State University, stressed that during the millennium from 111 BCE to Vietnamese independence in the 10th century, there was no “Vietnam” as we think of it today and no constant and unchanging “China” either. 

“The conflicts and connections between the two places are complex and confusing,” said Baldanza. 

To that end, Professor Vũ Tường, a political scientist from the University of Oregon, argued that Chinese interventions are often depicted in contemporary Vietnamese nationalist historiography as “foreign invasions,” overlooking the fact that many of these invasions were prompted by the requests of a substantial portion of the Vietnamese elite.

“One should avoid using the terms ‘colonization,’ ‘China,’ and ‘Vietnam’ as all are modern concepts. Instead, it is better to say ‘Han rule over the Red River Delta,’” said Vũ via an email.

In a 2016 article, Vũ  cited numerous examples in which being part of the Sinosphere was desirable. “Many premodern Vietnamese elites felt proud of being part of the Sinicized world and sought to impose Sinic institutions and cultures on neighboring Cambodia when they had the opportunity in the nineteenth century,” he wrote. 

In the face of the rising threat from the French in the mid-19th century, Vietnamese elites even sought Chinese protection. Nguyễn rulers turned to Beijing for help, only to see China humiliated at the hands of the French.  

In a 2013 article, Professor James Anderson noted that the two entities thrived on the principles of harmony and hegemony at the same time. The premodern Vietnamese state was able to survive on the periphery of various Chinese empires through “a gift-based diplomatic protocol of the tribute system,” which should not just be viewed through the imperialistic lens of a recent past. The dynamic of relations was shaped by the relative strengths and weaknesses of each side, which varied by time period.

“Vietnamese leaders negotiated their status within the Chinese tribute system in such a way as to establish regional independence while maintaining a check on Chinese incursions,” wrote Anderson. 

No Land for Free Historiography 

In both China and Vietnam, however, history is not taught as a tool of reflection, but rather a vehicle of nationalism. Both Communist Party-ruled governments hold a monopoly over the publication of history textbooks. Teaching history serves to cultivate a national spirit and patriotism, and to build a sense of pride, mission, and responsibility among the citizenry. In both countries, learning history is characterized by exam-oriented rote learning of established facts with little room for critical thinking. 

Beijing has been tightening control over history textbooks in recent years. In 2017, President Xi Jinping put an end to the practice of having diversified history textbooks throughout China. Instead, he authorized a single series of textbooks that were written and approved directly by the Ministry of Education. Not only are students required to memorize the contents of these textbooks, but most teachers also heavily rely on them for their own teaching.

The Ministry of Education exercises direct authority over both the content of history textbooks and teaching methodology. The official version of modern Chinese history is stated as follows: “Chinese modern history is a history of humiliation that China had been gradually degenerated into a semi-colonial and semi-feudal society; at the same time, it is also a history that Chinese people strive for national independence and social progress, persisted in their struggle of anti-imperialism and anti-feudalism, and was also the history of the success of New Democratic Revolution under the leadership of the CCP.”  

History education in China understandably tends to focus on the country’s own history, rather than on the histories of other countries. In Chinese textbooks, China was a victim, not a perpetrator of violence. This means that the Chinese education system may not place much emphasis on teaching students about China’s past of aggression in Vietnam (or other neighboring kingdoms, for that matter).

Through offering students the sole and “correct” perspective, Chinese history textbooks frequently succeed in persuading their readers to embrace narratives that align with Chinese communist ideology. The Chinese government may downplay or omit certain historical events that could reflect negatively on China’s actions in the past. According to Baldanza, the omission is not surprising.  

“The millennium-long Chinese dominance of northern Vietnam is not an important part of China’s curriculum, because it’s not an easy fit with the kinds of stories China tells about itself,” she said. “Resistance to Chinese aggression is an important part of Vietnamese national narratives, so the period of Chinese domination is more important for Vietnamese historical memory.”

She added, however, that these kinds of omissions are not uncommon in historiographies in other countries.  

“How many Americans could explain the U.S.’s relationship to Puerto Rico or know about American actions in the Philippines following the Spanish-American War, for example?” Baldanza asked.

* Christelle Nguyen

Christelle Nguyen is a development researcher based in Southeast Asia. Her interests include East Asian politics and tech diplomacy.